(4) Làm thế nào Người bảo vệ nhân quyền được hỗ trợ và bảo vệ trong công việc

factsheet29Thực tế vi phạm nhân quyền nghiêm trọng nhất tiếp tục giáng xuống những người bảo vệ nhân quyền đã cho thấy còn rất nhiều việc phải làm để hỗ trợ vai trò của họ và bảo vệ họ khỏi bị tổn hại.

Chương này cung cấp một số gợi ý hành động có thể được thực hiện để thi hành Tuyên ngôn và do đó hỗ trợ và bảo vệ những người bảo vệ nhân quyền ở cấp địa phương, quốc gia, khu vực và quốc tế. Những đề nghị này được gửi đến các nước, người bảo vệ nhân quyền, xã hội dân sự, Liên Hiệp Quốc và, trong một số trường hợp, khu vực tư nhân và các tác nhân khác. Các gợi ý này không phải là một danh sách đầy đủ của những gì có thể được thực hiện, nhưng nó cung cấp một cơ sở, qua đó các hoạt động và chiến lược cụ thể hơn có thể được phát triển theo nhu cầu của từng khu vực và quốc gia. Các đề xuất khác bao gồm: 

❖ Cơ sở pháp lý cho công việc của người bảo vệ nhân quyền và bảo vệ họ, bao gồm cả quyền tự do ngôn luận và tự do lập hội;

❖ Bảo vệ bởi pháp luật và tòa án trong thực tế;

❖ Tiếp cận đào tạo và thông tin;

❖ Vai trò của chính quyền quốc gia và địa phương và của LHQ, và lực lượng ảnh hưởng của khu vực tư nhân;

❖ Giám sát và phổ biến thông tin về tình hình của những người bảo vệ nhân quyền thông qua các phương tiện truyền thông và các mạng lưới xã hội dân sự;

❖ Bảo vệ và hỗ trợ cho những người bảo vệ nhân quyền ở nước ngoài;

❖ Trách nhiệm và tiêu chuẩn cao đòi hỏi ở những người bảo vệ nhân quyền.

Điều quan trọng cần nhấn mạnh một lần nữa rằng những nỗ lực để hỗ trợ và bảo vệ những người bảo vệ nhân quyền cũng sẽ giúp bảo đảm việc thực hiện các tiêu chuẩn nhân quyền. Bảo vệ người bảo vệ và hỗ trợ họ trong công việc phải là trung tâm của chiến lược nhân quyền của các quốc gia, công việc của Liên Hiệp Quốc như một toàn thể và các hoạt động của các tổ chức phi chính phủ có liên quan. Hỗ trợ cho những người bảo vệ nhân quyền nên là một bộ phận không thể thiếu của tất cả hợp tác quốc tế vì sự phát triển, dân chủ hóa và các hình thức chuyển đổi tương tự.

A. Hành động của các Quốc gia

Nghị quyết Đại hội đồng thường niên về Tuyên ngôn Người bảo vệ nhân quyền, bắt đầu từ năm 1998, đã kêu gọi tất cả các quốc gia thúc đẩy và phê chuẩn Tuyên ngôn. Nghị quyết thường niên của Ủy hội nhân quyền, bắt đầu vào năm 2000, cũng đã kêu gọi tất cả các quốc gia thực hiện Tuyên ngôn và hợp tác, giúp đỡ Đại diện đặc biệt. Nghị quyết này phản ánh một cam kết chính trị trong hành động của các quốc gia thành viên và cộng đồng quốc tế. Gợi ý hành động cụ thể cho các Quốc gia trong các đoạn văn sau đây.

1. Sử dụng Tuyên ngôn về Người bảo vệ nhân quyền

Sự phù hợp của pháp luật trong nước với Tuyên ngôn: Đảm bảo rằng pháp luật trong nước phù hợp với Tuyên ngôn về Người bảo vệ nhân quyền. Đặc biệt chú ý đảm bảo rằng không có cản trở lập pháp để hạn chế người bảo vệ nhân quyền tiếp nhận tài trợ, sự độc lập, quyền tự do lập hội, hội họp và ngôn luận.

Tuyên ngôn như là một công cụ pháp lý quốc gia: Việc thông qua Tuyên ngôn như một công cụ ràng buộc pháp lý quốc gia sẽ tăng cường tiềm năng của nó như một công cụ hỗ trợ cho nhân quyền và người bảo vệ nhân quyền. Đưa nó vào phạm vi pháp luật của Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành tư pháp áp dụng và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tôn trọng nó.

Thực hiện Tuyên ngôn: Thực hiện các điều khoản của Tuyên ngôn, theo dõi tiến độ thực hiện và công bố báo cáo hai năm một lần cho thấy những bước đã được thực hiện và những hạng mục vẫn còn quan ngại. Xem xét việc phát triển, tham khảo ý kiến ​​với các tổ chức xã hội dân sự, và đưa ra một kế hoạch hành động để thực hiện Tuyên ngôn.

Phổ biến và mở lớp đào tạo về Tuyên ngôn: Phổ biến Tuyên ngôn thông qua các chương trình thông tin và đào tạo, thí dụ như dành cho những người bảo vệ nhân quyền, cán bộ, công chức nhà nước, các tổ chức liên chính phủ và các giới truyền thông.

2. Bảo vệ trong thực tế

Giám sát: Đảm bảo rằng có một cơ chế dồi dào, mạnh mẽ, độc lập, như là Ủy ban nhân quyền quốc gia để nhận thông tin từ những người bảo vệ nhân quyền về các hành vi vi phạm mà  họ biết hoặc những vi phạm mà họ chính là mục tiêu. Hỗ trợ phát triển cơ chế giám sát quyền con người trong khu vực có thể bổ sung giám sát và bảo vệ người bảo vệ nhân quyền.

Tư pháp và miễn trừ trách nhiệm: Đảm bảo rằng người bảo vệ nhân quyền được hưởng sự bảo vệ đầy đủ của ngành tư pháp và các vi phạm chống lại họ được điều tra kịp thời, đầy đủ, cung cấp khắc phục hợp lý.

Vai trò của các cơ quan chính quyền địa phương: Nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của các cơ quan chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ và bảo vệ những người bảo vệ nhân quyền. Thực hiện Tuyên ngôn cần được bắt đầu ở cấp địa phương cũng như cấp quốc gia. Quá trình phân cấp của cơ quan nhà nước phải thừa nhận rằng trách nhiệm bảo vệ quyền con người là một phần quản trị của địa phương, cũng như các quốc gia. Các quan chức chính quyền địa phương có quyền tham dự vào các chương trình giáo dục quyền con người và cần được hỗ trợ và khuyến khích của chính quyền quốc gia để họ tôn trọng các tiêu chuẩn nhân quyền. Chính quyền địa phương được yêu cầu đóng góp thông tin cho các báo cáo quốc gia về thực hiện Tuyên ngôn.

Hợp tác với Đặc sứ: Gia hạn thư mời thăm quốc gia cho Đại diện đặc biệt về Người bảo vệ nhân quyền, cũng như những phái viện đặc biệt của Ủy hội nhân quyền. Đáp ứng kịp thời thông tin về các trường hợp mà Đại diện đặc biệt nêu ra và xem xét đề nghị đã đưa ra trong các báo cáo của Đại diện đặc biệt.

3. Hành động bởi các cơ quan nhà nước riêng biệt

❖ Cơ quan lập pháp có thể áp dụng một chương trình nghị sự hỗ trợ Tuyên ngôn và bảo vệ nhân quyền, đặc biệt chú ý đảm bảo rằng pháp luật, ví dụ như về mặt an ninh quốc gia, không được sử dụng một cách bất chính đáng để hạn chế công việc của người bảo vệ nhân quyền; thiết lập một ủy ban quốc hội về người bảo vệ nhân quyền và khuyến khích các đại biểu quốc hội “chọn” người bảo vệ nhân quyền đang bị đe dọa và công khai biện hộ cho họ. Sáng kiến ​​này có thể triển khai vì quyền lợi của người bảo vệ nhân quyền trong phạm vi quốc gia cũng như ở các nước khác.

❖ Văn phòng của người đứng đầu Nhà nước và / hoặc Chính phủ có thể thành lập một tâm điểm cho những người bảo vệ nhân quyền, trong số những thứ khác, đảm bảo rằng tất cả các bộ ngành của chính phủ thể hiện sự chào đón và hỗ trợ công việc của người bảo vệ nhân quyền có liên quan đến các khu vực trách nhiệm của họ .

❖ Bộ Ngoại giao có thể đảm bảo rằng các mối quan tâm của người bảo vệ nhân quyền làm việc tại các quốc gia khác được phản ánh trong chính sách đối ngoại của Chính phủ và hoạt động thương mại quốc tế; và cung cấp hỗ trợ người bảo vệ nhân quyền chạy trốn đàn áp ở các quốc gia khác bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho nhập cảnh và tạm thời cư ngụ. Một số chính phủ đã áp dụng chính sách chính thức về người bảo vệ nhân quyền và chỉ thị cho các đại sứ quán cung cấp sự hỗ trợ đặc biệt cho họ.

❖ Bộ Nội vụ có thể đảm bảo rằng tất cả các quan chức an ninh nội bộ, bao gồm cả cảnh sát, kinh qua đào tạo nhân quyền và rằng họ đang ủng hộ vai trò của người bảo vệ nhân quyền và các quyền và trách nhiệm được xác định trong Tuyên ngôn.

B. hành động của các tác nhân ngoài nhà nước, bao gồm cả tổ chức xã hội dân sự và khu vực tư nhân

❖ Truyền thông báo chí có thể đóng vai trò quan trọng để hỗ trợ những người bảo vệ nhân quyền bằng cách phổ biến Tuyên ngôn, báo cáo về hành vi vi phạm đã xảy ra đối với người bảo vệ nhân quyền và duy trì sự ủng hộ của công chúng cho công việc của họ. Các sáng kiến ​​nhằm tăng cường vai trò của các phương tiện truyền thông trong vấn đề này có thể được thực hiện bởi các tổ chức truyền thông và các tổ chức phi chính phủ khác và có thể mở lớp đào tạo nhân quyền hoặc đảm bảo truy cập được thông tin về nhân quyền một cách đều đặn và có tiến bộ. Các phương tiện truyền thông có thể nỗ lực đặc biệt để chống lại bất kỳ cố tình nào nói xấu những người bảo vệ nhân quyền, ví dụ như báo cáo kịp thời thách thức sai trái, cáo buộc người bảo vệ nhân quyền là những kẻ khủng bố, tội phạm hoặc chống lại Nhà nước.

Các tập đoàn xuyên quốc gia cần phải chú ý tới những mối quan tâm chính đáng khi những người bảo vệ nhân quyền bày tỏ với họ. Đặc biệt họ nên cẩn thận không yêu cầu hoặc khuyến khích các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, công khai hoặc ngầm, đàn áp người bảo vệ nhân quyền vì chỉ trích các hoạt động của các tập đoàn xuyên quốc gia. Các tập đoàn cũng có thể bày tỏ mối quan tâm với cơ quan có thẩm quyền về các hành vi vi phạm đối với những người bảo vệ nhân quyền, ví dụ như khi đàm phán thương mại và các thoả thuận khác với Nhà nước.

❖ Để tăng cường hiểu thêm người bảo vệ nhân quyền, các tập đoàn xuyên quốc gia và các tổ chức tư nhân khác có thể tham khảo Tuyên ngôn về người bảo vệ nhân quyền và các Nguyên tắc của Khế ước toàn cầu Liên Hiệp Quốc (UN global Compact’s ten principles).

Mạng lưới hỗ trợ: Xã hội dân sự nói chung có thể thiết lập mạng lưới giám sát không chính thức để đảm bảo rằng, bất cứ khi nào một người bảo vệ nhân quyền gặp phải mối đe dọa từ một hành vi vi phạm, thì thông tin nhanh chóng được chia sẻ trong nhóm rộng. Việc giám sát như vậy có thể có một vai trò bảo vệ mạnh mẽ, giúp ngăn chặn vi phạm. Mạng lưới nên được thành lập ở các cấp địa phương, quốc gia và khu vực. Cũng cần có liên kết với các cơ chế quốc tế có liên quan, chẳng hạn như các tổ chức phi chính phủ về nhân quyền của quốc tế.

C. Hành động của các ủy ban, văn phòng và chương trình của LHQ

Nghị quyết Đại hội đồng thường niên về Tuyên ngôn Người bảo vệ nhân quyền yêu cầu tất cả các cơ quan liên quan, tổ chức của LHQ, trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, cung cấp tất cả các trợ giúp có thể, và hỗ trợ cho Đai diện Đặc biệt về người bảo vệ nhân quyền. Ngoài ra, một loạt sáng kiến của LHQ ​​như sự ủng hộ của Tổng thư ký về việc đưa nhân quyền vào chương trình phát triển của LHQ, chương trình cải cách tổ chức LHQ và Chiến dịch Thiên niên kỷ để cổ xúy các mục tiêu phát triển mà các quốc gia tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ năm 2000 đã đồng ý. Tất cả các nước khuyến khích, và trong một số trường hợp, yêu cầu LHQ mạnh mẽ tham gia thực hiện các tiêu chuẩn nhân quyền. Đang có liên kết mạnh mẽ giữa vai trò và mục tiêu của những người bảo vệ nhân quyền và những người thuộc những Đội quốc gia của LHQ (UN Country Teams). Trong thực tế, Đại diện Đặc biệt ghi trong báo cáo năm 2003 cho Ủy hội nhân quyền rằng nhiều nhân viên của Liên hợp quốc là những người bảo vệ nhân quyền và người bảo vệ nhân quyền thường là đối tác quan trọng của Liên hợp quốc ở cấp quốc gia. Do đó hỗ trợ của hệ thống Liên Hiệp Quốc nói chung đối với Tuyên ngôn về người bảo vệ nhân quyền, và đặc biệt là Đội Quốc gia, chính là hỗ trợ cho các mục tiêu cốt lõi của LHQ.

1. Ở cấp quốc gia

Đội Quốc gia nên hoạt động tích cực trong việc thực hiện Tuyên ngôn và cung cấp hỗ trợ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, để bảo vệ nhân quyền. Hành động cụ thể có thể bao gồm:

❖ Thúc đẩy Tuyên ngôn, phổ biến và dịch sang các ngôn ngữ địa phương, và áp dụng các quy định của nó vào luật pháp quốc gia;

❖ Tổ chức các cuộc họp riêng giữa những người đứng đầu văn phòng của LHQ ở các quốc gia và những người bảo vệ nhân quyền trong nước (bao gồm cả những người ở trong các tổ chức xã hội dân sự và Nhà nước), trong đó người bảo vệ nhân quyền có thể trình bày mối quan ngại về nhân quyền và khuyến nghị trong phạm vi nghĩa vụ quyền hạn của các cơ quan, các chương trình hoặc các văn phòng hữu quan của LHQ;

❖ Ghi chú mối quan ngại về nhân quyền liên quan đến nhiệm vụ của LHQ ở các quốc gia và nêu những mối quan ngại đó với Nhà nước có liên quan;

❖ Cho phép những người bảo vệ nhân quyền làm việc với các tổ chức phi chính phủ về nhân quyền được sử dụng các cơ sở của Liên hợp quốc, chẳng hạn như trung tâm hội nghị, để tổ chức các chương trình đào tạo quyền con người hoặc hội thảo tương tự;

❖ Lưu ý các khuyến nghị liên quan của Đại diện đặc biệt về người bảo vệ nhân quyền và của báo cáo viên đặc biệt của LHQ.

Các quan chức trong đội các quốc gia của LHQ mà công việc có thể liên quan đặc biệt với người bảo vệ nhân quyền (tùy thuộc vào quốc gia và văn phòng) bao gồm:

❖ Đại diện thường trú hoặc Điều phối thường trú của LHQ;

❖ Thủ trưởng các văn phòng và các chương trình Liên Hiệp Quốc , bao gồm cả ILO, OHCHR, UNAIDS, UNDP, UNESCO, UNHCR, UNICEF, UNIFEM, WFP và WHO;

❖ Điều phối viên Chương trình, quan chức bảo vệ và quan chức về nhân quyền (đặc biệt là trong UNHCR, UNICEF, OHCHR và ILO);

❖ Nhân viên chịu trách nhiệm liên lạc với các tổ chức xã hội dân sự;

❖ Nhân viên làm việc về quản trị hiệu quả;

❖ Nhân viên chịu trách nhiệm cho các chiến dịch giáo dục và thông tin.

2. Ở cấp độ khu vực và quốc tế

Ở cấp độ khu vực và quốc tế, hệ thống Liên Hiệp Quốc có thể giúp đỡ rất nhiều cho những người bảo vệ nhân quyền. Hành động cụ thể có thể bao gồm:

 ❖ Đảm bảo rằng người bảo vệ nhân quyền, và bản Tuyên ngôn có trong chương trình đào tạo quốc tế và khu vực cho nhân viên;

❖ Phân tích vai trò của người bảo vệ nhân quyền trong hỗ trợ nhiệm vụ, chương trình của cơ quan LHQ, và chỉ ra bất kỳ vấn đề nào hạn chế sự hỗ trợ của người bảo vệ nhân quyền;

❖ Đảm bảo rằng chủ trương hỗ trợ mạnh cho những người bảo vệ nhân quyền có trong các tài liệu về chính sách;

❖ Duy trì liên lạc với các tổ chức khu vực và mạng lưới của người bảo vệ nhân quyền về các vấn đề liên quan phù hợp với nhiệm vụ cụ thể của LHQ. Duy trì nhận thức rằng người bảo vệ nhân quyền có thể cần bất kỳ sự bảo vệ và vận động hỗ trợ cho họ;

❖ Tiếp nhận và phân tích các báo cáo và khuyến nghị của Đại diện Đặc biệt về người bảo vệ nhân quyền và chuyển đến các văn phòng quốc gia có liên quan.

D. Hành động của những người bảo vệ nhân quyền

Như đã thảo luận trước đó trong Fact Sheet này, người bảo vệ nhân quyền có trong các cơ quan Nhà nước, trong xã hội dân sự, khu vực tư nhân và rất nhiều hình thức khác. Vì vậy, các phần trước từ A đến C được diễn giải về người bảo vệ nhân quyền cũng như các loại hình rộng lớn hơn của các tác nhân nhà nước, ngoài nhà nước và liên chính phủ. Phần cuối cùng này cung cấp một số gợi ý bổ sung cho hành động của những người bảo vệ nhân quyền như là một nhóm.

1. Tính chất công việc

❖ Thiết lập và duy trì tính công bằng và minh bạch.

❖ Xây dựng tính chuyên nghiệp về báo cáo vi phạm nhân quyền.

❖ Phát huy uy tín thông qua báo cáo chính xác.

❖ Trợ giúp để đảm bảo rằng các tổ chức nhân quyền khác cũng duy trì tiêu chuẩn cao tương tự.

❖ Một khi môi trường xã hội, luật pháp quốc gia tôn trọng Tuyên ngôn về người bảo vệ nhân quyền và các thiết chế quốc tế về quyền con người khác, thì cần đảm bảo rằng luật pháp và các quy định liên quan được tôn trọng bởi những người bảo vệ nhân quyền, ví dụ như việc đăng ký các tổ chức phi chính phủ.

2. Đào tạo

❖ Tổ chức thường xuyên hội thảo đào tạo quyền con người cho chính mình và các đồng nghiệp và cũng như cho người khác, chẳng hạn như cảnh sát, nhà báo, giáo viên và công chúng nói chung. Đào tạo cho những người bảo vệ nhân quyền bao gồm đào tạo tính chuyên nghiệp trong công việc của họ cũng như các biện pháp phòng ngừa về mặt an ninh.

❖ Những sự kiện như thế này có thể phục vụ mục đích thu hút thêm sự chú ý các quan tâm nhân quyền và công việc của những người bảo vệ nhân quyền.

3. Mạng lưới và kênh thông tin liên lạc

❖ Tạo mạng lưới hỗ trợ giữa những người bảo vệ nhân quyền và các tác nhân quan trọng khác, chẳng hạn như các phương tiện truyền thông, nhà thờ, xã hội dân sự nói chung và tác nhân có liên quan của khu vực tư nhân. Mạng lưới đặc biệt quan trọng tại các cấp địa phương, quốc gia và khu vực, nhưng cũng rất hữu ích ở cấp quốc tế.

❖ Mạng lưới có thể được sử dụng để giám sát sự an toàn của những người bảo vệ nhân quyền, nhanh chóng phổ biến thông tin về một người bảo vệ nhân quyền có nguy cơ, và mạng lưới cũng có thể đảm bảo rằng cộng đồng người bảo vệ nhân quyền là rộng lớn và đại diện đầy đủ các quyền con người. Khi sử dụng mạng lưới để truyền tải thông tin về vi phạm nhân quyền nói chung, người bảo vệ nhân quyền nên xác định các đối tác chủ chốt của họ và cung cấp cho họ những thông tin có thể sử dụng dễ dàng.

❖ Các kênh truyền thông có thể triển khai một chiến lược truyền bá cho cộng đồng.

4. Phân tích

❖ Xác định rõ những vấn đề cơ bản mà những người bảo vệ nhân quyền ở các quốc gia cụ thể đang đối mặt và phát thảo các khuyến nghị cho các chính quyền có liên quan về phương cách giải quyết vấn đề đó như thế nào.

 5. Ủng hộ một nhà nước cải thiện sự bảo vệ quyền con người

❖ Vận động bổ nhiệm các viên chức đã qua đào tạo quyền con người vào các vị trí chủ chốt như Bộ trưởng Bộ Tư pháp, các thẩm phán chính yếu và các công tố viên, cảnh sát trưởng …

❖ Thúc đẩy việc thành lập nhà nước và các tổ chức độc lập, những nơi sẽ thực hiện và bảo vệ các tiêu chuẩn nhân quyền.

❖ Khuyến khích các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền điều tra vi phạm nhân quyền và đôn đốc chấm dứt việc không bị trừng phạt.

6. Bảo vệ chiến lược

❖ Vạch ra chiến lược và cách thức bảo vệ khẩn cấp những người bảo vệ nhân quyền đang đối mặt với các mối đe dọa. Một chiến lược nên bao gồm các tiêu chí để quyết định mức độ nguy hiểm, để thông tin đến các mạng lưới bảo vệ khu vực và quốc tế, qua đó một nổ lực giải cứu lớn phải được thực hiện đúng như tính chính xác và đầy đủ của thông tin.

❖ Một chiến lược bảo vệ nên bao gồm thông báo các trường hợp cho Đại sứ đặc biệt về người bảo vệ nhân quyền.

7. Sử dụng Tuyên ngôn về người bảo vệ nhân quyền

❖ Sử dụng Tuyên ngôn này ở mức tối đa có thể  để hình thành bất kỳ chiến lược nào về người bảo vệ nhân quyền.

❖ Tuyên ngôn này có thể được phổ biến và là đối tượng của các chiến dịch đào tạo, và những người bảo vệ nhân quyền có thể biện hộ cho nó được đưa vào luật pháp quốc gia hoặc cho một kế hoạch hành động để thực hiện nó, phù hợp với tình hình địa phương.

Bản dịch của Defend the Defenders

*Xem bản tiếng Anh

(Source: Fact Sheet No.29, Ch. 4, the Office of the UN High Commissioner for Human Rights)

[subscribe2]