Hoàng Xuân Phú: Giải mã vụ Đồng Tâm

 

Tiến sỹ Hoàng Xuân Phú, tháng 3 năm 2021

 

Án tử hình cho hai bị cáo Lê Đình Chức và Lê Đình Công. Án chung thân cho bị cáo Lê Đình Doanh. 16 năm tù cho bị cáo Bùi Viết Hiểu. 13 năm tù cho bị cáo Nguyễn Quốc Tiến. 12 năm tù cho bị cáo Nguyễn Văn Tuyển. Và tổng cộng 71 năm 3 tháng tù cho 23 bị cáo khác. Đó là phán quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội trong Bản án số 355/2020/HS-ST ngày 14/9/2020.

Như thường lệ, báo chí chính thống ca bài “phán quyết đúng người, đúng tội”. Nhưng ngược lại, bao người lại lên án phán quyết ấy phi lý, bất chấp cả sự thật lẫn pháp luật. Nói nôm na, tòa án đã nhân danh công lý để chà đạp công lý.

“Làm gì tiếp?” Đó là câu hỏi của một Nhà văn lớn, gửi cho tôi vào sáng sớm ngày 15/9/2020, sau một đêm trăn trở về Bản án khắc nghiệt giáng lên đầu 29 người dân Đồng Tâm. Câu hỏi ấy không chỉ dành riêng cho tôi, mà cho tất cả chúng ta, kể cả những người có lương tri trong đảng cầm quyền.

Muốn trả lời, thì phải hiểu sự thật của tội ác Đồng Tâm, đồng thời phải hiểu rõ bản chất của những gì đã, đang và sẽ diễn ra, cho dù chúng tệ hại tới mức vượt mọi khả năng tưởng tượng của những tâm hồn lương thiện

Tôi đã viết hai bài Tội ác Đồng Tâm và “Viết thêm về tội ác Đồng Tâm” để vạch trần sự thật. Thiết tưởng, viết như vậy đã quá đủ. Song phía cầm quyền vẫn làm ngơ. Đáng tiếc hơn, nhiều người vẫn chưa đọc, hoặc đọc rồi nhưng vẫn chưa hiểu hết các lý lẽ, kết luận và thông điệp được gửi gắm trong hai bài ấy, nên cứ suy luận vu vơ, chệch hướng. Do đó, tôi đành viết thêm bài này, nhằm làm sáng hơn tỏ cái sự thật phũ phàng.

Bài viết được chia thành 6 phần:

– Phần 1 vạch trần sự vu khống nạn nhân Lê Đình Kình.

– Phần 2 viết về việc bịa ra hung thủ giết ba sĩ quan cảnh sát.

-Phần 3 phân tích vết tích hỏa thiêu trong hố kỹ thuật.

– Phần 4 lần theo vết cái gọi là chiến công đặc biệt của ba sĩ quan cảnh sát.

– Phần 5 bàn về thông điệp toát ra từ vụ Đồng Tâm.

– Phần 6 trình bày cách tiệm cận câu hỏi Ta phải làm gì?

Có thể tách riêng các phần trên, để đọc như những bài tương đối độc lập.

Đây là một bài viết dài và khá khó đọc, nên nếu muốn hiểu đúng, hiểu đủ, thì cần đầu tư nhiều thời gian, để đọc chậm rãi và đọc nhiều lần. Nội dung và ý nghĩa của bài viết đáng để những người thực sự quan tâm đến vụ Đồng Tâm tiếp cận như vậy.

  1. Vu khống nạn nhân

Mục tiêu chính của cuộc tấn công vào xã Đồng Tâm ngày 9/1/2020 là cụ Lê Đình Kình. Lẽ ra, nếu tôn trọng nguyên tắc pháp quyền, thì phải tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử tại tòa án. Song lộ trình pháp lý ấy lại không dẫn đến cái đích mà thế lực cầm quyền mong muốn.

Theo truyền thống xét xử của tòa án trong chế độ này, họ có thể khép cho cụ Kình bất cứ tội gì, cho dù cụ chưa từng phạm phải, để rồi kết án tử hình. Nhưng Điều 40 Khoản 3 của Bộ luật hình sự số 101/2015/QH13 lại quy định: “Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu… đủ 75 tuổi trở lên”. Và điều khoản trần trụi ấy thì khó có thể ngang nhiên chà đạp. Thành thử, dù kết án tử hình, thì vẫn chưa thể giết ngay cụ Kình (đã 84 tuổi), khiến cụ vẫn tồn tại, có thể trở thành ngọn cờ đấu tranh lâu dài, tương tự như Nelson Mandela những năm tháng trong nhà tù của chế độ Apartheid. Đó là điều họ không thể chấp nhận. Vì thế không thể bắt, mà phải giết. Ngay tại Đồng Tâm. Vào ngày 9/1/2020, khi trời chưa kịp sáng.

Vì vậy cụ Kình đã bị giết. Không chỉ bị giết, mà trước khi bị giết còn bị tra tấn hết sức dã man, và sau khi bị giết còn bị phanh thây. Man rợ một cách lộ liễu, vừa để trả thù, vừa để dằn mặt toàn dân.

Dù luôn sẵn sàng chà đạp lên pháp luật, nhưng đã xưng danh nhà nước pháp quyền, thì nhiều khi vẫn phải làm ra vẻ tuân thủ pháp luật. Do đó, để biện bạch rằng cảnh sát đành phải bắn cụ Kình trong hoàn cảnh bất đắc dĩ, họ vu khống cụ Kình đã dùng dao và cầm lựu đạn để tấn công người thi hành công vụ.

Trong bài Tội ác Đồng Tâm, tôi đã dành phần 1 để viết về cái chết oan ức của cụ Kình, và phủ định việc “khi khám nghiệm tử thi, trên tay của ông Lê Đình Kình cầm giữ quả lựu đạn”, như Thiếu tướng Tô Ân Xô, Chánh Văn phòng, Người phát ngôn Bộ Công an đã tuyên bố vào tối ngày 10/1/2020. Nhưng bản Kết luận điều tra số 210/KLĐT-PC01(Đ3) ngày 5/6/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hà Nội lại bịa thêm một số tình tiết tệ hại, buộc ta phải phủ định tiếp. Để đỡ nhàm chán, ta bỏ qua nhiều tình tiết phi lý quá ngớ ngẩn, chỉ tập trung phân tích ba nội dung vu khống sau đây.

Nội dung vu khống thứ nhất nằm ở đầu trang 15 của Kết luận điều tra, viết rằng:

“Bùi Viết Hiểu chạy từ tầng 2 xuống phòng ngủ phía trong tầng 1 nhà Kình thì Kình chốt khóa trongHiểu gọi Kình mở cửa thấy Kình có cầm 01 tuýp sắt…”

Rõ ràng, khi cụ Kình chống nạng ra mở chốt khóa cửa cho ông Hiểu, thì đương nhiên tay trái cầm nạng, tay phải mở chốt khóa. Vậy thì còn tay nào nữa để “Kình… cầm 01 tuýp sắt”,như “Hiểu… thấy”Quả là bịa đặt vô cùng ngớ ngẩn.

Nội dung vu khống thứ hai nằm ở giữa trang 15, viết rằng:

“Tổ công tác … tiến hành đột nhập từ ngách bên trái nhà Kình theo hướng cửa sắt sau (lối vào bếp nhà Kình) nhưng không mở được, chỉ hé được khe cửa thì bị Lê Đình Kình chọc lưỡi dao qua khe cửa trúng, làm xước ngón cái tay phải 01 đồng chí Công an…”

Bọn bịa đặt chẳng thèm bận tâm, rằng cái cửa sắt ấy chỉ có một cánh, với chốt cửa cắm thẳng vào lỗ cố định nằm sâu trong tường nhà (xem Ảnh 1.1). Thành thử, khi cửa đang bị chốt lại thì không hề có kẽ hở nào, khiến người ở bên ngoài cửa không thể nhìn thấy bất cứ ai hay thứ gì ở bên trong nhà, và người ở bên trong cũng không thể chọc bất cứ thứ gì ra ngoài. Còn khi đã “hé được khe cửa” (dù khe chỉ rộng 1 mm) thì cửa phải ở trạng thái mở, tức là không thể nói rằng “không mở được”. Hơn nữa, trích đoạn trước viết rằng cụ Kình ở trong phòng ngủ và “chốt khóa trong”, tức là cụ không hề có ý định ra khỏi phòng ngủ để tham chiến. Vậy mà lại trơ tráo bịa ra chuyện cụ Kình tập tễnh chống nạng lết đến tận cái cửa sắt sau nhà, rồi còn “chọc lưỡi dao qua khe cửa” của cái cửa “không mở được”

Ảnh 1.1: Cửa sắt phía sau (lối vào bếp) nhà cụ Lê Đình Kình.

Nội dung vu khống thứ ba nằm ở nửa đầu trang 16, được bắt đầu như sau:

“Tổ công tác tiếp tục áp sát phòng ngủ phía trong tầng 1 nhà Lê Đình Kình. Khi thấy Tổ công tác, đối tượng ở phòng ngủ phía trong dùng dao phóng lợn ném ra nhưng không trúng ai, tiếp đó có 01 đối tượng ném 01 (một) quả lựu đạn ra hành lang về phía Tổ công tác nhưng quả lựu đạn không nổ… Tổ công tác rút khỏi phòng khách ra sân nhà Kình… Một số đồng chí khác dắt theo 01 chó nghiệp vụ đi vòng theo ngách bên trái nhà Kình, áp sát cửa ngách sau nhà Lê Đình Kình.”

Điều gì đáng bàn trong trích đoạn trên? “Tổ công tác” đã “áp sát phòng ngủ” của cụ Kình. Dao phóng lợn mà đối tượng nào đó ném ra không trúng ai. Quả lựu đạn mà đối tượng nào đó ném ra không nổ. Vậy tại sao “Tổ công tác” không xông ngay vào phòng ngủ để bắt đối tượng? Mà lại “rút khỏi phòng khách ra sân nhà Kình”, để rồi “đi vòng theo ngách bên trái nhà Kình, áp sát cửa ngách sau nhà Lê Đình Kình”. Tức là rút khỏi cửa phòng ngủ của cụ Kình, rồi bước 11 mét để đến cửa trước nhà, rẽ trái 2 mét để đến đường ngách, rồi rẽ trái 13 mét nữa, tổng cộng là 26 mét, để lại tiếp cận với phòng ngủ cụ Kình qua lối cửa sắt phía sau nhà – cái cửa mà chỉ mấy phút trước họ khẳng định rằng “không mở được”. Có thể nói, chỉ trong trạng thái động kinh, thì lực lượng “còn đảng còn mình” mới có thể hành quân ngây ngô theo quĩ đạo đèn cù như vậy.

Tiếp theo, Kết luận điều tra viết:

“Khi phá khóa cửa ngách (cửa vào khu bếp), Tổ công tác phát hiện Lê Đình Kình đang cầm 1 quả lựu đạn trên tay phải đứng sát cửa ra vào phòng ngủ phía trong, lưng quay về phía Tổ công tác nên sử dụng súng nhằm hướng về phía đối tượng, cách vị trí của Kình khoảng 2 – 2,5m và nổ súng 2 lần khiến đối tượng Kình bị thương ở vùng lưng và ngã vào trong phòng, đầu hướng vào trong, chân hướng ra cửa phòng.”

Để thấy được sự phi lý, hãy quan sát Ảnh 1.2, được chụp từ “cửa vào khu bếp” (tức là nơi mà từ đó “Tổ công tác phát hiện Lê Đình Kình đang cầm 1 quả lựu đạn trên tay phải”), và người trong ảnh cũng đang “đứng sát cửa ra vào phòng ngủ phía trong, lưng quay về phía Tổ công tác”. Rõ ràng, khi cụ Kình đứng ở vị trí ấy thì “Tổ công tác” không thể nhìn thấy tay phải của cụ. Câu chuyện chưa dừng ở đây. Bởi nếu cụ Kình đứng ở vị trí ấy và bị bắn vào lưng rồi ngã gục, thì hai chân sẽ thò ra hành lang. Đơn giản vì chân trái của cụ từng bị công an đánh gẫy, nên phải chống nạng, và do đó cụ không thể tạo ra lực bằng chân trái để nhảy ngang về phía bên phải, nhằm lao cả người vào trong phòng ngủ. Vì thế, để có thể “ngã vào trong phòng, đầu hướng vào trong, chân hướng ra cửa phòng”, thì chân phải của cụ Kình phải đứng sâu hơn nữa trong phòng ngủ, khiến không chỉ tay phải, mà cả nửa người bên phải cũng bị khuất hẳn sau bức tường. Thành thử, “Tổ công tác” càng không thể nhìn thấy tay phải cụ Kình cầm cái gì. Nói các khác, khẳng định “Tổ công tác…phát hiện Lê Đình Kình đang cầm 1 quả lựu đạn trên tay phải” là hoàn toàn bịa đặt.

Ảnh 1.2: Vị trí mà Kết luận điều tra viết là cụ Kình đứng và “cầm 1 quả lựu đạn trên tay phải” – Ảnh được chụp từ “cửa vào khu bếp”.

Tình tiết “phát hiện Lê Đình Kình đang cầm 1 quả lựu đạn trên tay phải” được bịa ra nhằm hợp pháp hóa việc “nổ súng 2 lần”. Và theo Kết luận điều tra, hai phát súng ấy chỉ “khiến đối tượng Kình bị thương ở vùng lưng” thôi, còn trách nhiệm gây ra cái chết của cụ Kình thì được gán cho loài chó như sau:

“Ngay lúc này, 01 chó nghiệp vụ lao vào phòng cắn vào đầu gối chân trái của Kình và lôi ra ngoài phòng khách tầng 1 nhà Kình. Khi lực lượng Công an tiến hành áp sát thì thấy Lê Đình Kình đã chết trong tư thế nằm ngửa, trên tay phải của Kình vẫn cầm 01 quả lựu đạn.”

Rõ ràng, để chó có thể “cắn vào đầu gối” và lôi đi một đoạn, thì nạn nhân phải nằm ngửa trong suốt quá trình ấy. Và vì trạng thái ban đầu là “chân hướng ra cửa phòng”, nên chó phải lôi chân nạn nhân ra trước. Do cửa phòng ngủ của cụ Kình chỉ rộng 72 cm và mở ra hành lang chỉ rộng 85 cm, nên chó không thể lôi nạn nhân xa hơn vị trí được thể hiện trong Ảnh 1.3. Bởi tại vị trí ấy, chân nạn nhân đã chạm bức tường hành lang, nên chó không thể lôi nạn nhân tiến xa hơn nữa về phía bức tường. Và vì nửa trên của nạn nhân vẫn còn nằm trong phòng ngủ, trong khi thân thể bị vướng vào cả hai bên cửa phòng ngủ, nên chó cũng không thể xoay hướng nằm của nạn nhân để lôi dọc theo hành lang, tiến về phía phòng khách.

Ảnh 1.3: Tình thế tắc nghẽn khi nạn nhân bị chó lôi từ phòng ngủ ra hành lang để tới phòng khách.

Thực ra, chó cũng không thể lôi nạn nhân ra đến vị trí được thể hiện trong Ảnh 1.3. Vì nếu chuyển động về phía tường hành lang, thì mông chó va vào tường hành lang trước khi chân nạn nhân chạm vào bức tường. Còn nếu chuyển động theo hướng dọc theo hành lang, để tiến về phía phòng khách, thì cũng không thể được, kể cả khi thân thể nạn nhân chưa bị vướng vào hai bên cửa phòng ngủ. Đơn giản vì lúc ấy chó buộc phải đứng ở phía bên phải thân thể nạn nhân, và khi nó cố rướn thân vươn đầu qua chân phải để “cắn vào đầu gối chân trái” của nạn nhân, thì hai chân trước của chó sẽ phải tì sát vào chân phải của nạn nhân. Do đó, hai chân trước của chó trở thành vật cản, không cho thân thể nạn nhân chuyển động về hướng mà chó muốn lôi đi. Đấy là chưa kể đến độ trơn của gạch men, khiến chân chó không thể bám chặt vào nền nhà để lôi một cơ thể khá nặng.

Hoàn toàn phi lý, nhưng tại sao họ vẫn cố tình bịa đặt quá ngớ ngẩn như vậy? Không chỉ nhằm đổ tội cho chó đã gây ra cái chết của cụ Kình, mà còn dùng tình tiết “chó… cắn vào đầu gối chân trái” để lấp liếm việc thi thể của cụ Kình bị mất cả đầu gối chân trái (xem Ảnh 1.4). Một chứng tích man rợ khủng khiếp, chỉ có thể gây ra bằng súng và dao, nhằm tra tấn, hành hạ và nhục mạ cụ Kình. Vậy mà lại gán bản quyền cho chó. Nếu thứ tệ hại nào cũng đổ trách nhiệm cho chó, thì vết tra tấn trên gáy, vết đạn nhắm vào tim, và vết mổ phanh thây trên thi thể cụ Kình (mà bằng chứng được ghép lại trong Ảnh 1.4), tất cả đều là tác phẩm của loài chó hay sao?

Ảnh 1.4: Dấu vết tội ác trên ngực, gáy và đầu gối của nạn nhân 

Trên thực tế, từ đường ngách dẫn tới cửa sắt sau nhà cụ Kình, chúng đã vãi đạn qua cửa sổ, nhắm vào phòng ngủ của cụ Kình (xem Ảnh 1.5). Rồi khi vào đến hành lang, chúng lại nã đạn qua ô cửa thoáng, nhắm vào giường ngủ của cụ Kình (xem Ảnh 1.6). Cuối cùng, khi vào được phòng ngủ của cụ Kình, chúng bắn tứ tung (xem Ảnh 1.7), nhằm uy hiếp và tra tấn cụ Kình bằng tiếng súng. Điều đó cũng chứng tỏ, cụ Kình luôn ở trong phòng ngủ của cụ, chứ không hề bước ra khỏi cửa, như đã bịa đặt trong Kết luận điều tra.

Ảnh 1.5: 7 vết đạn bắn từ ngách dẫn tới cửa sắt sau nhà, qua cửa sổ, nhắm vào phòng ngủ của cụ Kình.
Ảnh 1.6: Vết đạn trên song cửa thoáng và đầu đạn giắt lại trong thanh inox, được bắn từ hành lang và nhắm vào giường ngủ của cụ Kình
Ảnh 1.7: Mấy vết đạn trong phòng ngủ của cụ Kình.

Hãy xem lại hai vết đạn trên cửa phòng ngủ (ở gần công tắc điện) trong Ảnh 1.5. Đó chính là nơi mà Kết luận điều tra viết rằng cụ Kình đã đứng khi bị bắn vào lưng. Giả sử, nếu cụ Kình đã đứng ở đó khi cảnh sát bắn hai viên đạn ấy, thì chúng đã cắm vào bụng cụ Kình, chứ chẳng cắm vào tường như vậy.

Tóm lại, mặc dù đã tra tấn và giết chết cụ Kình ngay trong phòng ngủ của cụ, nhưng chúng lại bịa ra chuyện cụ Kình ra khỏi phòng ngủ, cầm dao và lựu đạn để tấn công người thi hành công vụ. Ra điều vì thế cụ mới bị bắn, và cũng chỉ bị thương… Còn việc cụ Kình bị chết và đầu gối của cụ biến mất thì đổ cho loài chó gây ra.

Chỉ lũ dã thú đầy quyền lực mới có thể trơ tráo bịa đặt và vu khống nạn nhân như vậy.

  1. Bịa ra hung thủ

Vu khống cụ Kình tấn công người thi hành công vụ chưa đủ, nên huy động thêm cái chết của ba sĩ quan cảnh sát. Cơ quan công an, Viện kiểm sát và Tòa án đồng thanh khẳng định, rằng Thượng tá Nguyễn Huy Thịnh, Thiếu úy Dương Đức Hoàng Quân và Trung úy Phạm Công Huy đã bị Lê Đình Chức và Lê Đình Doanh đổ xăng thiêu cháy dưới cái hố kỹ thuật nằm giữa nhà Lê Đình Hợi và nhà Lê Đình Chức.

Bằng cách nào mà ba sĩ quan ấy lại xuất hiện ở dưới hố kỹ thuật? Sáng 14/1/2020, Thứ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang tuyên bố với báo chí: “Trong quá trình truy bắt đối tượng từ nhà Lê Đình Chức sang nhà Lê Đình Hợi … anh em ngã xuống hố.”

Song tôi đã phân tích và chỉ rõ trong bài Tội ác Đồng TâmKhông thể có chuyện cả ba sĩ quan cảnh sát cùng bị ngã xuống hố kỹ thuật. Để rút ra kết luận này, tôi đã xét thêm cả trường hợp hướng chuyển động ngược lại (so với tuyên bố của Thứ trưởng Lương Tam Quang). Tức là không chỉ xem xét hướng chuyển động từ nhà ông Chức sang nhà ông Hợi, mà xét cả hướng từ nhà ông Hợi sang nhà ông Chức. Hơn nữa, mặc dù lúc đó Bộ Công an chưa cáo buộc, nhưng tôi vẫn phòng xa mà chứng minh rằng: Người dân Đồng Tâm không hề làm gì khiến ba sĩ quan cảnh sát rơi xuống hố kỹ thuật. Đơn giản vì đã đoán trước, họ sẽ nhào nặn ra kịch bản khác.

Y như rằng, bản Kết luận điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hà Nội đã bịa ra kịch bản sau:

“Khi 03 Đ/c Nguyễn Huy Thịnh, Phạm Công Huy và Dương Đức Hoàng Quân di chuyển qua cửa sổ nhà Hợi để sang mái nhà Chức thì bị Chức dùng tuýp sắt gắn dao phóng lợn chọc từ trên xuống, các đối tượng khác ném ‘bom’ xăng, gạch đá từ mái nhà Kình nên bị rơi xuống hố…”

Để thấy được mức độ phi lý của quy kết trên, hãy quan sát Ảnh 2.1. Người trong ảnh đang có mặt trên mái nhà Lê Đình Hợi và cầm trong tay một thanh tre dài đúng 1,4 mét, tượng trưng cho “tuýp sắt gắn dao phóng lợn”. Chọn độ dài ấy, vì theo Kết luận điều tra (tại trang 19), các tuýp sắt dài không quá 1,2 mét và các lưỡi dao dài không quá 0,2 mét, tức là “tuýp sắt gắn dao phóng lợn” dài không quá 1,4 mét.

Ảnh 2.1: Chụp người đóng vai Lê Đình Chức (theo Kết luận điều tra) ở trên mái nhà Lê Đình Hợi, cầm thanh tre dài 1,4 mét và chọc xuống phía cửa sổ

Trong nửa bên trái của Ảnh 2.1, người đóng vai ông Chức đang đứng ở vị trí 1, ngay trên bức tường vuông góc với cửa sổ, và quay lưng ra phía đường thôn. Lợi thế của vị trí đó là có thể quan sát được cảnh sát đang lấp ló cạnh cửa sổ. Nhưng lợi thế ấy hoàn toàn vô dụng, vì dù người đóng vai ông Chức đã vắt người qua lan can sân thượng và duỗi thẳng tay, đầu dưới của thanh tre vẫn còn cách cửa sổ khoảng 20 cm. Vì thế, từ vị trí 1, dù muốn thì ông Chức cũng không thể dùng “tuýp sắt gắn dao phóng lợn” để chọc tới mấy cảnh sát khi họ vượt qua cửa sổ.

Trong nửa bên phải của Ảnh 2.1, người đóng vai ông Chức đang ngồi ở vị trí 2, ngay trên cửa sổ, và quay mặt về phía sân thượng của nhà ông Chức. Lợi thế của vị trí đó là không bị vướng lan can sân thượng, nên có thể chọc xuống thấp hơn. Tuy nhiên, dù nhân vật đóng thế đã gập người sát bờ bao sân thượng và đã duỗi thẳng tay, thì đầu dưới của thanh tre cũng chỉ với tới tầm thấp hơn mép trên của cửa sổ khoảng 20 cm. Vì thế, ngay cả khi viên cảnh sát đã trèo lên bệ cửa sổ và vươn đầu lên sát mép trên của cửa sổ, thì mũi dao phóng lợn cũng không thể với tới phần thân thể từ vai trở xuống. Còn nếu đâm vào đầu viên cảnh sát thì chỉ trúng mũ bảo hiểm, với lực tác động khá yếu, do đối tượng đã phải gập người sát bờ bao sân thượng và đã duỗi thẳng tay. Điều bất lợi của vị trí 2 là từ đó không thể nhìn thấy cảnh sát đứng phía trong cửa sổ. Cho nên, đối tượng cũng không thể nắm bắt được cái khoảnh khắc cực kỳ ngắn ngủi mà viên cảnh sát trèo lên được bục cửa sổ, để kịp chọc vào đầu, trước khi người ấy nhảy qua hố kỹ thuật. Hơn nữa, khi trời chưa sáng thì nguồn sáng chủ yếu dọi vào khu vực ấy là đèn pha chiếu từ đường thôn, mà ánh sáng ấy khi soi rõ thân hình cảnh sát trên bệ cửa sổ, thì cũng đồng thời chiếu thẳng vào mặt làm lóa cả mắt đối tượng đang ở phía trên cửa sổ. Trong hoàn cảnh ấy thì có mắt cũng như mù, đối tượng chỉ có thể đâm hú họa xuống phía cửa sổ. Giả sử một cú đâm hú họa với lực tác động yếu ớt vào mũ bảo hiểm khiến viên cảnh sát giật mình mà rơi xuống hố, thì nhiều nhất cũng chỉ có một người bị rơi mà thôi. Vì hai cảnh sát không thể đồng thời trèo lên cái cửa sổ vừa hẹp vừa cao ấy. Và sau khi một cảnh sát bị rơi xuống hố, thì đương nhiên thét lên, khiến các cảnh sát khác chững lại, không tiếp tục leo lên bệ cửa sổ để vượt qua hố kỹ thuật.

Diễn biến tiếp theo được bịa đặt trong Kết luận điều tra như sau:

“Chức đứng trên mái tầng 2 nhà Lê Đình Hợi bảo Doanh: ‘Đưa chậu xăng lên đây cho tao’. Doanh đang đứng ở mái phía sau tum nhà Chức chạy vào cửa tum thấy 01 can xăng màu trắng loại 20 lít (bên trong còn khoảng 5 – 6 lít xăng). Doanh đổ một ít xăng ra chậu màu đỏ (đã có sẵn các mảnh vải), sau đó để chậu ở lại và mang can xăng trèo lên thang sắt đã để sẵn… đặt phía sau Chức… Doanh quay lại chạy vào tum lấy bật lửa cho vào túi quần bên phải và bê chậu xăng màu đỏ trèo lên thang để đưa cho Chức. Doanh đặt chậu xăng lên gờ tường nóc tum nhà Lê Đình Chức sát tường nhà Lê Đình Hợi. Chức bảo Doanh châm lửa và đẩy chậu xăng về phía trước. Doanh lấy bật lửa trong túi quần bên phải châm vào chậu xăng thì lửa bùng cháy lớn nên Doanh dùng chân đẩy mạnh chậu xăng rơi xuống hố… Khi thấy lửa chuẩn bị tắt, Chức cầm can xăng đổ ra chậu và đổ nhiều lần xuống hố làm lửa bùng cháy lớn… Doanh sau khi đẩy chậu xăng xuống hố thì chạy xuống, đặt thang, trèo sang phía mái sau tầng 2 nhà Kình đứng ở đó và nhìn thấy Chức dùng chậu đổ 3 – 5 lần xuống hố, cứ 3 – 5 phút thì đổ một lần, dẫn đến 03 đồng chí Thịnh, Huy, Quân tử vong tại hố nêu trên.”

Chữ “chậu” được nhắc đi nhắc lại tới 11 lần trong đoạn khá ngắn, đủ thấy nó đóng vai trò quan trọng đến mức nào. Đó là một phát minh hoàn toàn mới mẻ, nhằm hóa giải tình huống đã được mô tả trong bài Tội ác Đồng Tâm. Rằng nếu ông Chức đổ xăng từ can xuống hố, thì do miệng can khá nhỏ nên xăng sẽ chảy chậm thành dòng, khiến ngọn lửa dưới hố bén vào dòng xăng, vụt cháy ngược lên cái can (vẫn còn chứa xăng), và thiêu cháy cả ông Chức. Nhưng nếu đổ xăng ra chậu thì khác, khi ấy có thể hắt ào một cái, toàn bộ xăng sẽ đồng thời rời khỏi chậu, rơi xuống hố mà không tạo thành dòng, và nhờ thế ngọn lửa dưới hố không kịp bén lên cái chậu (không còn xăng) trên tay ông Chức.

Quá hợp lý, phải không? Nhưng bạn có thấy điều gì phi lý không? Không thấy ư? Vậy hãy từ từ tua chậm lại nhé. Ban đầu Chức bảo Doanh: “Đưa chậu xăng lên đây cho tao”. Vậy là Doanh đổ một ít xăng ra chậu, nhưng “để chậu ở lại và mang can xăng… đặt phía sau Chức”. Nghĩa là Chức chỉ nhận được can xăng, chứ chưa hề có chậu trong tay. Tiếp theo, Doanh “bê chậu xăng màu đỏ trèo lên thang để đưa cho Chức”. Tuy nhiên, trong khi Chức đang đứng trên mái tầng 2 nhà Hợi, thì “Doanh đặt chậu xăng lên gờ tường nóc tum nhà Lê Đình Chức sát tường nhà Lê Đình Hợi”, nơi thấp hơn chỗ Chức đang đứng 1 mét. Thành thử, Chức vẫn chưa có chậu. Sau đó, “Doanh lấy bật lửa trong túi quần bên phải châm vào chậu xăng thì lửa bùng cháy lớn nên Doanh dùng chân đẩy mạnh chậu xăng rơi xuống hố. Kể từ lúc ấy, cả Chức và Doanh đều chẳng còn cái chậu nào nữa. Vậy mà Kết luận điều tra lại viết rằng Doanh vẫn “nhìn thấy Chức dùng chậu đổ 3 – 5 lần xuống hố. Ngạc nhiên chưa?

Chưa hết, hãy nhắm mắt lại mà tưởng tượng xem, trong khi phải sử dụng cả hai tay để “bê chậu xăng màu đỏ”,thì Doanh “trèo lên thang” bằng cách nào? Và mở mắt ra quan sát Ảnh 2.2, để thấy người bê chậu phải vất vả thế nào khi giữ thăng bằng trên nấc thang đầu tiên. Chông chênh, run rẩy như vậy, thì Doanh có thể leo được 8 nấc thang để lên đến nóc tum hay không?

Ảnh 2.2: Chụp người đóng vai Lê Đình Doanh (theo Kết luận điều tra), đang bê chậu và leo thang để lên nóc tum của nhà ông Chức.

Hơn nữa, tất cả chỉ có “01 can xăng màu trắng” với “bên trong còn khoảng 5 – 6 lít xăng”, như vậy có đủ để thiêu ba cảnh sát đến mức “cháy than hóa toàn thân”(như ba bản kết luận giám định pháp y số 03/20/GĐPY, 04/20/GĐPY và 05/20/GĐPY ngày 20/2/2020 của Viện Pháp y Quốc gia đã viết) hay không?

Chắc hẳn, vì cũng thấy quá phi lý, nên Viện kiểm sát Thành phố Hà Nội đã cắt bỏ chi tiết “bên trong còn khoảng 5 – 6 lít xăng” và mấy tình tiết khác, không đưa chúng vào bản Cáo trạng số 241/CT-VKS-P2 ngày 24/6/2020. Ví dụ, Cáo trạng đã sửa nội dung Kết luận điều tra như sau:

“Sau khi đẩy chậu xăng xuống hố thì Doanh chạy xuống, đặt thang, trèo sang đứng ở phía mái sau tầng 2 nhà Kình. Lúc này, Chức dùng chậu đổ xăng nhiều lần xuống hố, cứ 03 – 05 phút thì đổ một lần làm lửa bùng cháy…”

Tức là thay “3 – 5 lần” thành “nhiều lần”, đồng thời bỏ tình tiết Doanh “nhìn thấy Chức” dùng chậu đổ xăng. Chứng tỏ Doanh không chịu thừa nhận đã nhìn thấy, như Kết luận điều tra viết…

Có điều, Viện kiểm sát không tự điều tra, mà chỉ “căn cứ bản Kết luận điều tra vụ án hình sự, đề nghị truy tố số 210/KLĐT-PC01-Đ3 ngày 05/6/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hà Nội” để viết Cáo trạng. Vậy tại sao Viện kiểm sát lại ngang nhiên biến báo, nhằm hợp lý hóa Kết luận điều tra sai trái của công an như thế?

Ảnh 2.3: Nơi mà Kết luận điều tra viết rằng Lê Đình Chức và Lê Đình Doanh đã “dùng tuýp sắt gắn dao phóng lợn chọc từ trên xuống”, rồi đổ xăng xuống hố kỹ thuật để thiêu chết ba sĩ quan cảnh sát, và một số đối tượng đã “dùng ‘bom’ xăng, gạch đá, pháo tấn công lực lượng Công an” – Ảnh được chụp từ đường thôn.

Ảnh 2.3 chụp nơi mà Kết luận điều tra viết rằng Lê Đình Chức và Lê Đình Doanh đã “dùng tuýp sắt gắn dao phóng lợn chọc từ trên xuống”, rồi đổ xăng xuống hố kỹ thuật để thiêu chết ba sĩ quan cảnh sát, và một số đối tượng đã “dùng ‘bom’ xăng, gạch đá, pháo tấn công lực lượng Công an”. Bức ảnh này được chụp từ đường thôn, bằng iPhone 7. Nó cho thấy, mọi hành động (nếu có) của các đối tượng ấy không thể lọt khỏi các ống kính quay phim, chụp ảnh chuyên nghiệp của lực lượng công an. Vậy thì tại sao không trưng ra phim ảnh trung thực để làm minh chứng, thay cho đoạn phim ngụy tạo một cách ngây ngô từng được trình chiếu trên ANTV?

Đặc biệt, Ảnh 2.3 còn cho thấy, khi hành động tại các vị trí ấy, thì cả Lê Đình Chức, Lê Đình Doanh và các đối tượng kia đều phơi mình trong tầm ngắm rất gần của các xạ thủ cảnh sát, đang chĩa súng từ đường thôn. Vậy tại sao đám cảnh sát ấy lại không hề nổ súng để cứu đồng đội, mà lại giương mắt đứng nhìn? Mặc cho Chức điềm nhiên “sử dụng tuýp sắt gắn dao phóng lợn chọc nhiều lần từ trên xuống”, khiến ba cảnh sát lần lượt rơi xuống hố kỹ thuật.Mặc cho Doanh ung dung trèo lên trèo xuống lấy xăng, để cho Chức thong thả rót xăng ra chậu và “đổ 3 – 5 lần xuống hố, cứ 3 – 5 phút thì đổ một lần”, từ từ thiêu sống ba cảnh sát. Và không chỉ có đám cảnh sát trên đường thôn án binh bất động…

Ban đầu, Thứ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang tuyên bố rằng “trong quá trình truy đuổi, một tổ công tác gồm ba người đã hi sinh”. Bài Tội ác Đồng Tâm” đã dành cả phần 2.4 để bình luận về cái “đội hình quái lạ”, chỉ có đúng ba tổ viên ấy. Để khắc phục, ngoài Thượng tá Nguyễn Huy Thịnh, Thiếu úy Dương Đức Hoàng Quân và Trung úy Phạm Công Huy, bản Kết luận điều tra của cơ quan công an đã sửa lại, rằng Tổ công tác gồm ba người kể trên “cùng một số đồng chí khác”. Song tất cả quân số bổ sung đều vô danh, kể cả “01 đồng chí trong Tổ công tác sang được mái nhà Lê Đình Chức thì bị nhóm các đối tượng đứng trên mái nhà Lê Đình Kình ném ‘bom’ xăng dẫn đến bị bỏng ở tay, cháy giày và quần áo”.

Chắc vì vẫn bị phê phán, nên bản Cáo trạng của Viện kiểm sát sửa “cùng một số đồng chí khác” thành “cùng nhiều người khác”, và gán cho “01 đồng chí trong Tổ công tác sang được mái nhà Lê Đình Chức” một cái tên cụ thể. Đó là “anh Chu Anh Tuấn (cán bộ Công an)”, nhưng bỏ qua thông tin về cấp bậc quân hàm và nơi công tác. Đặc biệt, Cáo trạng (trang 11) và Bản án (trang 20) đều viết rõ là “anh Tuấn bị bỏng nhẹ ở tay”.

Thử hỏi, khi đã “sang được mái nhà Chức” và chỉ “bị bỏng nhẹ ở tay”, thì “anh Tuấn” làm gì trong lúc Lê Đình Chức điềm nhiên dùng dao phóng lợn chọc thủ ba đồng đội cùng Tổ công tác, rồi thong thả đổ xăng xuống hố để thiêu sống họ, mà toàn bộ cảnh ấy lại diễn ra khoảng hai chục phút ngay trước mắt “anh Tuấn” và chỉ cách “anh Tuấn” mấy mét? Và một khi “anh Tuấn” đã đứng trên mái nhà ông Chức và giương mắt chứng kiến toàn bộ quá trình ông Chức đổ xăng xuống hố, thì tại sao Kết luận điều tra không viết là “anh Tuấn… nhìn thấy Chức dùng chậu đổ 3 – 5 lần xuống hố, cứ 3 – 5 phút thì đổ một lần”, mà lại gán trách nhiệm chứng kiến ấy cho Doanh? (Trong khi Doanh đã “trèo sang phía mái sau tầng 2 nhà Kình đứng ở đó”, tức là khoảng cách từ Doanh đến Chức xa gấp mấy lần so với khoảng cách từ “anh Tuấn” đến Chức.)

Hơn nữa, “nhiều người khác” cùng Tổ công tác lúc ấy lẩn trốn ở đâu, mà không xông ra cứu ba đồng đội đang bị thiêu sống?

Đừng ngụy biện rằng vì kiềm chế mà phía cảnh sát không nổ súng tiêu diệt hung thủ. Hãy xem Ảnh 2.4 và Ảnh 2.5, để thấy một số vết đạn trên tường phía trước và tường đầu hồi tầng 2 của nhà ông Lê Đình Hợi, cùng với vết đạn trên tường tum của nhà ông Lê Đình Chức. Tất cả đều được bắn từ đường thôn. Hai bức ảnh ấy chứng tỏ: Cảnh sát đã không hề ngần ngại khi vãi đạn về phía mà Kết luận điều tra viết rằng các đối tượng đang hành sự. Thêm vào đó, Ảnh 2.6 đặc tả vết đạn ở hai mặt lan can inox trên sân thượng nhà cụ Lê Đình Kình. Nó thể hiện mức công phá của những viên đạn được bắn từ đường thôn, đủ để chấm dứt cơn hưng phấn giết người (nếu có) của bất cứ đối tượng nào. Chứng tích ấy đặc biệt ở chỗ, đầu đạn hiện vẫn còn nằm lại trong ống inox, như một bằng chứng khó tẩy xóa của tội ác Đồng Tâm.

Ảnh 2.4: Một số vết đạn trên mặt tường phía trước nhà ông Lê Đình Hợi, được bắn từ đường thôn.
Ảnh 2.5: Một số vết đạn trên mặt tường phía trước và tường đầu hồi tầng 2 của nhà ông Lê Đình Hợi, cùng với vết đạn trên tường tum của nhà ông Lê Đình Chức, tất cả đều được bắn từ đường thôn
Ảnh 2.6: Vết đạn ở hai mặt của lan can inox trên sân thượng nhà cụ Lê Đình Kình, được bắn từ đường thôn.

Cảnh sát đã bắn vãi đạn như vậy, thì tại sao Lê Đình Chức và Lê Đình Doanh vẫn ung dung hành sự? Chẳng lẽ đúng lúc Chức và Doanh thong thả đổ xăng xuống hố kỹ thuật để thiêu cháy ba sĩ quan cảnh sát, thì “anh Chu Anh Tuấn” thản nhiên chứng kiến, còn đám cảnh sát trên đường thôn cùng “nhiều người khác” thuộc “Tổ công tác” cũng giương mắt đứng nhìn, để mặc ba người đồng đội bị thiêu ngay trước mắt họ hay sao?

Nếu quả thật như thế, thì “anh Chu Anh Tuấn” và các cảnh sát liên quan đã phạm phải “Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng”, quy định tại Điều 132 của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13. Đó là chưa kể đến trách nhiệm đặc thù của cảnh sát đối với đồng đội trong chiến đấu. Vậy tại sao họ không bị truy tố, xét xử?

Hay phải chăng, họ đã nhận được lệnh và chấp hành đúng mệnh lệnh, là để mặc cho ba sĩ quan cảnh sát bị giết? Nếu thế thì không chỉ họ, mà cả những kẻ ra lệnh cho họ đều là tòng phạm…

Viết như vậy để thấy, càng dối trá càng lâm vào ngõ cụt. Nên tốt nhất hãy thừa nhận, những hành động dẫn đến cái chết của ba sĩ quan cảnh sát mà Kết luận điều tra gán cho Lê Đình Chức và Lê Đình Doanh đều là bịa đặt.

  1. Vết tích hỏa thiêu

Trong bài Tội ác Đồng Tâm, tôi đã dùng hai bức ảnh được chụp từ miệng hố kỹ thuật để chứng minh rằng:

(a)    Thứ nhiên liệu đã thiêu cháy ba sĩ quan cảnh sát trong hố kỹ thuật không phải là chất lỏng.

Từ đó có thể dễ dàng suy ra: Cáo buộc Lê Đình Chức và Lê Đình Doanh đã đổ xăng để thiêu cháy ba sĩ quan cảnh sát là sai sự thật.

Trong bài “Viết thêm về tội ác Đồng Tâm”, tôi đã dùng 6 bức ảnh, được chụp từ đáy hố kỹ thuật, để rút ra ba kết luận cụ thể hơn. Đó là:

(b)    Vật liệu cháy được đựng trong các ống hở đầu (giống như pháo hoa), tạo ra phóng hỏa có định hướng.

(c)    Vật liệu cháy đã được sử dụng sinh ra nhiệt lượng rất lớn, nhưng tương đối ít khói.

(d)    Khối lượng vật liệu cháy đã được sử dụng là khá lớn, và hầu hết các ống chứa vật liệu cháy đều hướng vào vách bên trái của hố kỹ thuật.

Hơn nữa, dựa vào đoạn video được trình chiếu trên VTV về việc “bắt giữ các đối tượng gây rối ở xã Đồng Tâm” và 4 x 8 = 32 bức ảnh được tách ra từ đó, tôi đã chỉ ra:

(e)    Nhiều đợt cháy nổ hiện ra trong đoạn video xuất phát từ hố kỹ thuật nằm giữa nhà ông Chức và nhà ông Hợi.

(f)     Có một vụ thiêu đã diễn ra trong hố kỹ thuật.

(g)    Vật liệu cháy được sử dụng trong hố kỹ thuật thuộc dạng pháo hoa.

(h)    Khối lượng vật liệu cháy đã được ném xuống hố kỹ thuật lớn đến mức không thể là trang bị thông thường, mà việc thu xếp để có được chúng phải là một đặc vụ riêng biệt.

(i)     Số vật liệu cháy đã được ném xuống hố kỹ thuật KHÔNG thuộc về người dân Đồng Tâm.

(j)     Để có thể ném xác của ba sĩ quan cảnh sát xuống hố kỹ thuật và phóng hỏa thiêu cháy một cách an toàn và kín đáo, hung thủ chỉ có thể đứng trong nhà ông Hợi và nấp sau cái cửa sổ hướng ra hố kỹ thuật.

Kết luận như vậy đã rất chi tiết và đầy đủ. Nhưng tiếc thay, nhiều người vẫn khẳng định, hay tin theo khẳng định, rằng “không có vụ cháy nào xảy ra trong hố ấy”Để góp phần thu hẹp luồng tư duy nhầm lẫn trong dư luận, tôi đành công bố thêm mấy bức ảnh đặc trưng.

Trong Ảnh 3.1 là phần góc tiếp giáp giữa vách phía trước và vách bên trái của hố kỹ thuật, cách đáy hố từ 0,5 đến 1,3 mét. Như đã viết trong bài “Viết thêm về tội ác Đồng Tâm”, trong khi lớp vữa trát trên vách bên trái hố bị tổn thương đáng kể và bị khói đen ám khắp nơi, thì lớp vữa trát trên vách phía trước không bị tổn thương, lại có hai vùng hầu như không bị ám khói đen, và phần bị ám khói cũng tách khỏi đáy một khoảng cách khá lớn. Các hiện tượng ấy là minh chứng cho ba kết luận (a), (b) và (c).

Ảnh 3.1: Phần gần đáy của góc tiếp giáp giữa vách phía trước và vách bên trái của hố kỹ thuật

Đặc biệt, có những dị vật gắn vào vách hố. Một trong những dị vật ấy được thể hiện trong Ảnh 3.2. Nó nằm ở độ cao cách đáy hố khoảng 110 cm (nơi phân cách hai vùng hầu như không bị ám khói đen), có hình thù giống như búi giẻ bị cháy. Nhưng khi gõ vào thì thấy nó khá cứng. Có thể đó là vết tích còn lại của bộ đồ bảo hộ của cảnh sát phòng cháy chữa cháy, thứ có thể trụ được trong các đám cháy thông thường, nhưng bị nóng chảy khi nhiệt độ quá cao. Việc các dị vật bị gắn vào vách hố chứng tỏ chúng bị ép bởi áp lực khá cao, tương ứng với áp lực của vật liệu cháy phụt ra từ ống pháo hoa.

Ảnh 3.2: Dị vật cứng gắn chặt vào góc tiếp giáp giữa vách trước và vách trái của hố kỹ thuật.

Ảnh 3.3 chụp đáy hố kỹ thuật. Trên đấy có mấy thanh kim loại, chắc là khung nhôm của cánh cửa sổ bị phá. Những chỗ sần sùi trên thanh kim loại cho thấy vật liệu cháy đã bắn vào đó khá mạnh.

Ảnh 3.3: Dấu vết trên đáy hố kỹ thuật.

Với những vết tích rõ ràng như vậy, thì tại sao vẫn khẳng định rằng không có dấu hiệu của vụ cháy? Ngoài kiểu quả quyết một cách vu vơ, các ý kiến phủ định vụ cháy dựa trên hai bằng chứng tìm thấy dưới hố kỹ thuật, đó là mép cót và sợi dây điện không bị cháy.

Trước hết, ta xem xét hiện tượng mép cót chìa ra ở góc hố kỹ thuật không hề bị cháy, được thể hiện trong Ảnh 3.4. Đó là mép của lớp cót được lót ở giữa hai bức tường của hai nhà hàng xóm khi xây dựng. Nếu bám vào kịch bản do phía công an tung ra về vụ cháy bằng xăng, thì có thể coi đó là một bằng chứng đắt giá để phủ định. Thế nhưng, theo kết luận đã được nhắc lại ở trên, vụ cháy không phải do nhiên liệu lỏng gây ra, mà do vật liệu cháy thuộc dạng pháo hoa, được đựng trong các ống hở đầu, tạo nên phóng hỏa có định hướng. Chính vì phóng hỏa có định hướng, nên nơi bị vật liệu cháy phụt vào thì nhiệt độ rất cao và bị ám khói đen ngòm, còn những nơi khác thì nhiệt độ có thể tương đối thấp, không đủ để gây cháy. Quầng đen trong Ảnh 3.4 nằm cách đáy hố trên 30 cm, đó chính là khu vực duy nhất trên vách bên phải của hố kỹ thuật bị vật liệu cháy phụt vào. Mép cót nằm hoàn toàn ngoài khu vực ấy, nên cót không bị cháy là điều dễ hiểu.

Ảnh 3.4: Mép cót ở góc hố kỹ thuật không bị cháy.

Bây giờ ta xem xét hiện tượng sợi dây điện trong hố kỹ thuật “không bị cháy”. Nó được khoanh tròn trong Ảnh 3.5, một trong những bức ảnh được phổ biến trên internet, nhằm phủ định vụ cháy. Theo họ, nếu có vụ cháy thì sợi dây điện phải bị cháy, nhưng vì sợi dây điện không bị cháy nên không thể có vụ cháy. Lô gích chắc nịch, phải không? Song suy luận ấy sơ hở ở chỗ, trong hoàn cảnh phóng hỏa có định hướng, thì tương tự như cót không bị cháy, dây điện cũng có thể không bị cháy, nếu nó không nằm trong vùng bị phóng hỏa.

Ảnh 3.5: Bức ảnh về “sợi dây điện không bị cháy”, được phổ biến trên internet nhằm phủ định vụ cháy.

Tuy nhiên, để xác định đúng bản chất của hiện tượng “dây điện không bị cháy”, hãy quan sát Ảnh 3.6. Trong hai ô chữ nhật màu đỏ ở nửa bên phải Ảnh 3.6 ta thấy có bốn sợi dây điện. Chúng chính là đoạn trên cùng và đoạn dưới cùng của cặp dây điện được khoanh tròn trong Ảnh 3.5. (Ghi chú: Nếu hình dáng có những điểm khác nhau thì do dây điện đã bị biến dạng bởi tác động của con người giữa hai thời điểm chụp khác nhau.) Không chỉ có vậy, trong ô chữ nhật màu vàng ở nửa bên trái Ảnh 3.6 còn có hai sợi dây điện khác. Tại sao trên hai vách hố đều thò ra đúng hai sợi dây? Đơn giản vì chúng không phải là bốn sợi hoàn toàn độc lập, mà là lõi của một đoạn cáp điện duy nhất, nối từ vách bên trái tới vách phía sau của hố kỹ thuật. Cáp điện ấy có hai lõi, mỗi lõi được bện từ 80 dây kim loại nhỏ. Đương nhiên, mỗi lõi được bọc bởi một lớp cách điện, và cả hai lõi được bọc chung trong một lớp cách điện khác. Việc bốn đầu dây treo lủng lẳng ở hai vách hố chứng tỏ lớp cách điện bên ngoài (bọc cả hai lõi) đã bị cháy hết. Hơn nữa, một đoạn lõi kim loại ở phần giữa cáp đã bị nóng chảy hoàn toàn, khiến cáp bị đứt ra, chỉ còn lại bốn đầu dây treo lủng lẳng. Sức công phá của vật liệu cháy mạnh đến mức khiến đầu dây còn sót lại (vốn được bện chặt từ 80 dây kim loại nhỏ) bị bung ra.

Ảnh 3.6: Bốn sợi dây điện treo lủng lẳng trong hố kỹ thuật.

Vậy tại sao lớp cách điện bên trong (bọc riêng từng lõi) lại không bị cháy ư? Để trả lời chính xác, hãy quan sát Ảnh 3.7, được ghép từ hai bức hình, chụp đoạn trên cùng của cặp dây thò ra từ vách bên trái và vách phía sau của hố kỹ thuật. Cả hai bức hình đều cho thấy, lớp cách điện bên trong (riêng cho từng lõi) cũng đã bị cháy hết, nên có thể nhìn rõ cả những dây kim loại nhỏ.

Ảnh 3.7: Lõi cáp đã bị cháy hết hai lớp cách điện.

Vết tích dây điện bị cháy rõ ràng đến thế, mà vẫn khẳng định, rằng không có dấu vết nào chứng tỏ có vụ cháy đã diễn ra dưới hố kỹ thuật. Buồn thay. Nếu chỉ nghiêng ngó từ miệng hố, rồi phán bừa, thì đã là đáng trách. Đằng này, cũng chui xuống đáy hố kỹ thuật quay phim, chụp ảnh, gọi là khảo sát, mà vẫn phán như vậy, thì bào chữa kiểu gì?

(Còn tiếp)

(Theo Blog Hoàng Xuân Phú)