Trình tự Xét xử công minh (6) – Phần 1: Quyền con người trước phiên tòa- Chương 5- Quyền được đưa ngay lập tức đến trước một thẩm phán

Bản dịch của [rollinglinks]Vũ Quốc Ngữ[/rollinglinks]

(Defend the Defenders)

Nguồn: Amnesty International

trinh tu-xet-xu-cong-minh

Mọi người bị bắt hoặc bị giam giữ liên quan đến cáo buộc hình sự phải được đưa ngay đến trước một thẩm phán hoặc một quan chức tư pháp, để quyền của họ được bảo vệ. Thẩm phán có nhiệm vụ xác định việc bắt giữ và giam giữ có đúng luật không, và quyết định trả tự do cho người bị bắt giữ hoặc giữ lại để chờ ngày ra tòa. Nhà nước chịu trách nhiệm chứng minh rằng việc bắt giữ hoặc giam giữ là đúng luật và việc giam giữ tiếp theo đó là cần thiết và tương xứng.

5.1 Quyền được đưa ngay đến trước một thẩm phán

5.1.1 Những quan chức được phép thực thi quyền tư pháp

5.1.2 Thế nào là “đưa ngay ” đến trước một phẩm phán?

5.2 Quyền trong buổi điều trần

5.3 Giả định tại ngoại trước xét xử

5.4 Những lý do để giam giữ chờ xét xử

5.5 Những biện pháp thay thế giam giữ trong thời gian trước phiên tòa

__________

5.1 Quyền được đưa ngay đến trước một thẩm phán

Tất cả các hình thức giam giữ hoặc phạt tù phải tuân thủ theo, hoặc thuộc đối tượng kiểm soát hữu hiệu của cơ quan tư pháp.

Giám sát tư pháp việc giam giữ nhằm bảo vệ quyền tự do, và trong vụ án hình sự, với giả định vô tội. Nó cũng nhằm mục đích ngăn chặn vi phạm nhân quyền bao gồm tra tấn hoặc ngược đãi, giam giữ tùy tiện và thủ tiêu. Nó đảm bảo rằng tình trạng của người bị giam giữ không phụ thuộc vào lòng thương xót của chính quyền giam giữ họ.

Tiêu chuẩn quốc tế yêu cầu bất cứ ai bị bắt hoặc bị giam giữ được đưa kịp thời tới trước một thẩm phán hay viên chức khác có thẩm quyền pháp luật để thực hiện quyền tư pháp.
 
Mục đích của việc đưa các tù nhân ngay lập tức trước một thẩm phán bao gồm:

– Để đánh giá tính hợp pháp của việc bắt giữ , tạm giam, và để yêu cầu trả tự do hoặc không thì:

– Để bảo vệ thân thể của người bị giam giữ,

– Ngăn chặn sự vi phạm các quyền của người bị giam giữ,

– Nếu sự bắt giữ hoặc giam giữ ban đầu là hợp pháp, thì sẽ đánh giá :

– Liệu có thể cho tại ngoại và điều kiện để thực hiện việc đó,

– Trong vụ án hình sự, liệu việc giam giữ có cần thiết và tương xứng.

Một phiên điều trần với một mục đích khác không đáp ứng quyền này. Ví dụ, nếu mục đích của một buổi điều trần là buộc tù nhân khai mà không xem xét tính hợp pháp của việc giam giữ, Tòa án Liên Mỹ cho rằng phiên điều trần này không đáp ứng các yêu cầu của Điều 7 của Công ước châu Mỹ.

Tòa án châu Âu yêu cầu phải làm rõ ngay tính hợp pháp của việc bắt/giam giữ và khả năng cho tại ngoại hay tạm giam chờ xét xử. Tòa cho rằng tốt nhất là hai vấn đề này được xem xét ngay lập tức bởi một quan chức tư pháp có thẩm quyền quyết định cả hai việc. Tuy nhiên, Tòa cũng cho rằng không có sự vi phạm luật pháp nếu hai vấn đề trên được xem xét bởi hai tòa án riêng biệt trong khung thời gian yêu cầu.

Nhà nước có nghĩa vụ để đảm bảo rằng những người bị bắt giam được đưa ngay ra trước một thẩm phán, không phụ thuộc vào việc người bị giam giữ có thách thức việc giam giữ hay không.

Có nhiều quan ngại khi trong thực tế nhà chức trách từ chối việc xem xét tính hợp pháp của việc bắt giữ những người bị tình nghi liên quan đến khủng bố và buôn bán ma túy. Tòa án châu Âu cho rằng sự đe dọa nghiêm trọng của khủng bố và buôn bán ma túy cũng không cho phép nhà chức trách tùy tiện bắt giữ mà không tuân theo luật.

Việc tôn trọng quyền này rất quan trọng trong những quốc gia mà lực lượng quân đội kiểm soát an ninh.

Với những người bị bắt vì liên quan đến cáo buộc hình sự, việc điều trần ban đầu trước một thẩm phán hoặc quan chức tư pháp nên đưa đến việc chấm dứt giam giữ ở đồn cảnh sát. Nếu không được tại ngoại, người bị cáo buộc nên được chuyển đến nơi tạm giam không thuộc phạm vi của cơ quan điều tra. (Xem Chương 10).

Điều 9 của ICCPR

“Mọi người bị bắt hay bị giam giữ với cáo buộc hình sự nên được đưa ngay tới trước một thẩm phán hoặc một quan chức có thẩm quyền, là người quyết định trả tự do hay truy tố trong một thời hạn nhất định.

5.1.1 Những quan chức được thực hiện quyền tư pháp

Nếu một người bị giam giữ được đưa tới trước một quan chức tư pháp thay vì trước một thẩm phán, thì vị quan chức này phải được thực hiện quyền tư pháp một cách khách quan, độc lập với chính quyền và các đảng phái. (Xem Chương 12 phần 4- Quyền được xét xử bởi một tòa án độc lập).

Quan chức tư pháp này phải có quyền để xem xét tính hợp pháp của việc bắt giữ, tạm giam
và cơ sở của những nghi ngờ về người bị bắt trong một vụ án hình sự, và có quyền trả tự do cho người bị bắt nếu xét thấy việc bắt giữ hoặc giam giữ là không đúng luật.

Các công tố viên thường không hội đủ điều kiện là quan chức tư pháp cho mục đích này. Họ đã nhiều lần hành động không có tính khách quan và vô tư trong việc xác định tính hợp pháp của việc giam giữ.

Tòa án châu Âu đã thấy nhiều công tố viên, điều tra viên, sĩ quan quân đội và thẩm phán điều tra không thực hiện quyền tư pháp một cách độc lập cho mục đích này, bởi vì họ đã được giao nhiệm vụ để can thiệp vào quá trình tố tụng như làn đại diện của chính quyền.

Công ước châu Âu không cho là có sự vi phạm vào Điều 5 của Công nước khi một thẩm phán tiến hành điều trần ban đầu trong vòng 36 giờ sau khi bắt giữ có quyền trả tự do sau khi phát hiện việc bắt giữ không hợp pháp, nhưng không cho tại ngoại, vì phiên xử bảo lãnh được tiến hành trong ngày hôm sau.

5.1.2 Thế nào là “đưa ngay lập tức trước thẩm phán” ?

Tiêu chuẩn quốc tế yêu cầu các cá nhân được đưa ra trước một thẩm phán ngay sau khi bị bắt hoặc bị giam giữ. Trong khi “tính kịp thời” được xác định theo hoàn cảnh cụ thể của từng trường hợp, Ủy ban Nhân quyền yêu cầu sự chậm trễ không được vượt quá vài ngày.

Trong nhiều trường hợp, sự chậm trễ hơn 48 giờ sau khi bị bắt hoặc bị giam giữ được xem là quá mức. ( Nhưng xem Chương 27 phần 6 mục 1 về trẻ em).

Ủy ban Nhân quyền đã bày tỏ quan ngại về pháp luật của một số quốc gia cho phép cảnh sát giam giữ trong 72 giờ hoặc nhiều hơn mà không cho gặp quan chức tư pháp.

Trong một đất nước mà sự tra tấn tù nhân có tính hệ thống, Ủy ban chống tra tấn đề nghị pháp luật nên được sửa đổi theo hướng yêu cầu người bị giam giữ được đưa ra trước một tòa án trong vòng 24 giờ, và yêu cầu thẩm phán luôn sẵn sàng cho các vụ việc này.

Các vấn đề ảnh hưởng đến các tổ chức của hệ thống tư pháp hình sự không bao giờ là sự bào chữa cho việc không tuân thủ các yêu cầu kịp thời.

Tuy nhiên, yêu cầu của tính kịp thời cho phép có sự linh hoạt trong các trường hợp cụ thể. Sự linh hoạt cần có trong những trường hợp ví dụ như việc bắt giữ, giam giữ được tiến hành trên biển.

Trong khi một số linh hoạt đã được áp dụng do một số yếu tố như sự phức tạp trong điều tra, ví dụ như trong các vụ liên quan đến khủng bổ, nhiều tổ chức chỉ trích sự chậm trễ trong những trường hợp đó. Tòa án Châu Âu năm 1988 cho rằng việc đưa các phần tử bị cáo buộc thực hiện hành động khủng bố đến trước thẩm phán 4 ngày 6 tiếng sau bắt giữ là quá dài. Điều tra viên đặc biệt về quyền con người và chống khủng bố tuyên bố rằng trong vòng 48 tiếng, mọi người bị giam giữ cần phải được tiếp cận điều trần tư pháp về tính hợp pháp của việc giam giữ.

Ủy ban Nhân quyền đã chỉ ra rằng quyền được đưa kịp thời trước một thẩm phán không nên được giới hạn trong thời gian có tình trạng khẩn cấp. Toà án châu Âu và Liên Mỹ chỉ ra rằng sự chậm trễ trong việc đưa người bị bắt đến trước một tòa án có thể được cho phép trong tình trạng khẩn cấp, thì sự chậm trễ không được kéo dài. Tòa án châu Âu đòi hỏi có các biện pháp bảo vệ chống lại lạm dụng trong giai đoạn này, chẳng hạn như việc tiếp xúc giữa người bị bắt giam và luật sư, bác sĩ và thân nhân. (Xem Chương 31 – Tnh trạng khẩn cấp).

5.2 Quyền trong quá trình xét xử và phạm vi đánh giá

Trách nhiệm chứng minh rằng việc bắt giữ, tạm giam ban đầu là hợp pháp và tiếp tục giam giữ, nếu được đặt ra, là cần thiết và tương xứng, thuộc về nhà nước – hoặc công tố viên hoặc thẩm phán điều tra trong một số hệ thống pháp luật dân sự. Nó phải thiết lập vì việc tại ngoại có thể tạo ra các nguy cơ mà không thể khắc phục.

Các cá nhân có các quyền sau đây trong phiên điều trần:
– Được đưa (về thể chất) trước quan chức tư pháp

– Được hỗ trợ tư pháp, bao gồm hỗ trợ tư vấn pháp lý miễn phí (xem lại Chương 3)

– Tiếp cận với các tài liệu cần thiết

– Được nhận dịch vụ phiên dịch miễn phí nếu không thể nói và hiểu ngôn ngữ sử dụng trong phiên tòa.

– Được lắng nghe về tất cả các vấn đề liên quan

– Kháng cáo

– Được hỗ trợ từ đại diện lãnh sự hoặc trợ giúp thích hợp khác nếu là người nước ngoài (xem Chương 2 phần 5)

– Được thông báo cho gia đình biết ngày và địa điểm xét xử (trừ khi điều này sẽ dẫn đến nguy cơ nghiêm trọng đối với tòa án hoặc an ninh quốc gia).

Nếu việc giam giữ được tiếp tục, người bị giam giữ có thể thách thức tính hợp pháp của việc giam giữ, được rà soát định kỳ thường xuyên của sự cần thiết phải tiếp tục bị giam giữ, và được xét xử trong một thời gian hợp lý. (xem Chương 6 và 7).

5.3 Giả định tại ngoại trước phiên tòa

Phù hợp với các quyền tự do và suy đoán vô tội (xem Chương 15), có một giả định rằng người bị cáo buộc vi phạm tội hình sự sẽ không bị giam giữ trong khi chờ xét xử.

Một số tiêu chuẩn quốc tế cho rằng người bị cáo buộc vi phạm hình sự không nên bị giam giữ trong khi chờ xét xử.

Tuy nhiên, các tiêu chuẩn bao gồm giả định tại ngoại, nhận ra một cách rõ ràng rằng:

– Sự tại ngoại của một người cần phải được đảm bảo người đó phải có mặt tại phiên tòa, bằng hình thức đóng tiền bảo lãnh hoặc các yêu cầu khác.

– Bị cáo có thể bị giam giữ chờ xét xử, nếu tòa xét thấy là cần thiết và tương xứng.

Nhà nước chịu trách nhiệm cân nhắc việc tước đoạt tự do của người bị cáo buộc trước phiên tòa. Việc giam giữ được thực hiện nếu việc tại ngoại trước phiên tòa có thể gây nguy cơ đánh nhau, gây hại cho người khác hoặc gây ảnh hưởng đến các bằng chứng hoặc điều tra mà không thể khắc phục. (Xem Chương 6- Quyền được thách thức tính hợp pháp của việc giam giữ, và Chương 7- Quyền được xét xử trong một thời gian nhất định hoặc được trả tự do).

5.4 Những lý do để giam giữ trong khi chờ xét xử

Để biện minh cho việc giam giữ trong khi chờ xét xử, phải có:

– Sự nghi ngờ hợp lý rằng cá nhân có phạm một tội đáng bị phạt tù, và

– Lợi ích công cộng, bất chấp sự suy đoán vô tội, cần thiết hơn quyền tự do cá nhân, và

– Có lý do tin cậy để tin rằng, nếu được tại ngoại, cá nhân có thể:

+ Bỏ trốn,

+ Phạm tội nghiêm trọng,

+ Can thiệp vào việc điều tra hoặc sự công minh của công lý,

+ Là mối đe dọa nghiêm trọng đến trật tự công cộng, và

+ Không có khả năng có các biện pháp thay thế để giải quyết các vấn đề trên.

Những lý do cho phép tiến hành tạm giam cần được diễn giải chính xác trong luật.

Khi đánh giá rủi ro trong trường hợp cụ thể, có thể xem xét tính chất và mức độ nghiêm trọng của cáo buộc, mặc dù điều này sẽ không đủ để biện minh cho giam giữ. Ngoài ra, cần phải cân nhắc đến hoàn cảnh của từng trường hợp và hoàn cảnh cá nhân của bị cáo, bao gồm tuổi tác, sức khỏe, tính cách và lý lịch cũng như vị trí trong xã hội, bao gồm cả mối quan hệ cộng đồng. Thực tế là một người mang quốc tịch nước ngoài không phải là lý do hợp lý để kết luận rằng có một nguy cơ chạy trốn, cũng như một người không có nơi cư trú cố định. Việc cân nhắc nên được chú ý trong trường hợp bị cáo đang chăm sóc trẻ sơ sinh.

Giam giữ trẻ em phải được xem là một biện pháp cuối cùng (xem Chương 27).

Việc giam giữ chờ xét xử là một biện pháp phòng ngừa nhằm ngăn ngừa tác hại hoặc gây ảnh hưởng đến công lý, chứ không phải là một sự trừng phạt. Việc giam giữ không phục vụ cho các mục đích không đúng đắn hoặc sự lạm dụng quyền lực, và không được kéo dài lâu hơn là cần thiết. Phải luôn có sự kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết tiếp tục tạm giam trong mỗi trường hợp. Nguyên tắc này bị vi phạm bởi pháp luật mà loại bỏ kiểm soát tư pháp, ví dụ bằng cách cấm bảo lãnh cho những nhóm người, chẳng hạn như người phạm tội lặp lại, hoặc pháp luật quy định giam giữ bắt buộc trước khi xét xử đối với bất kỳ hành vi phạm tội nào.

Quyết định tạm giữ không nên chỉ dựa vào độ dài của các bản án mà người bị cáo buộc có thể phải nhận.

Để bảo vệ chống lại phân biệt đối xử trên cơ sở kinh tế, trong những trường hợp có thể đóng tiền bảo lãnh được tại ngoại, nguồn lực tài chính của cá nhân nên được xem xét trong việc xác định số tiền phải đóng bảo lãnh. (Xem Chương 11 về quyền bình đẳng).

Trong trường hợp tội phạm bạo lực, bao gồm cả bạo lực gia đình, các cơ quan chức năng phải đánh giá rủi ro mà bị cáo có thể mang lại. Sự thất bại trong việc bảo vệ nạn nhân của bạo lực gây ra bởi mối nguy hiểm biết trước vi phạm các quyền của nạn nhân. Trong trường hợp này, một loạt các biện pháp tương xứng với rủi ro cần được xem xét. (Xem Chương 22 phần 4- Quyền của nạn nhân và nhân chứng).

5.4.1 Các giải pháp thay thế cho tạm giam trước phiên tòa

Cho rằng việc giam giữ chờ xét xử là ngoại lệ, chuẩn mực quốc tế đưa ra các biện pháp thay thế ít hạn chế hơn. Những biện pháp này nên được xem xét nếu tòa án có những bước cần thiết để bảo đảm sự có mặt của bị cáo trong phiên tòa. Những biện pháp có thể là bảo lãnh tiền hoặc bảo lãnh bởi một cá nhân khác, cấm rời khỏi đất nước, giám sát (kể cả giám sát bằng chip), quản thúc tại gia và các hình thức cấm khác. Các biện pháp này phải được quy định rõ ràng trong luật.

Quyết định thiết lập số tiền bảo lãnh hoặc lựa chọn thay thế khác cho việc giam giữ nên dựa trên đánh giá nguy cơ và hoàn cảnh của bị cáo trong mỗi trường hợp cụ thể. (xem phần 5 mục 4 ở trên).

Các biện pháp thay thế cho giam giữ nên được lựa chọn trong các trường hợp mà bị cáo là người đơn độc hoặc đang chăm sóc trẻ em, hoặc là phụ nữ đang mang thai hoặc đang có con trong thời gian nuôi con bằng sữa mẹ.

Hết Chương 5

Đón đọc Chương 6: Quyền thách thức tính hợp pháp của việc giam giữ