Quan hệ Việt Trung nồng ấm trở lại

Chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam là một điểm nhấn của sự thay đổi lớn trong quan hệ song phương Trung-Việt.

Nguyễn Minh Quang, The Diplomat, ngày 25/01/2017

(Bản dịch của Vũ Quốc Ngữ)

Trong những ngày 12-15/01, Trung Quốc nhiệt liệt đón chào vị lãnh đạo nước ngoài đầu tiên đến thăm năm 2017: Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) Nguyễn Phú Trọng. Đây cũng là chuyến viếng thăm Trung Quốc đầu tiên của ông Trọng kể từ khi ông này được bầu lại ở vị trí lãnh đạo cao nhất của đảng năm ngoái và cũng là chuyến đi nước ngoài đầu tiên của ông vào năm 2017. Chính vì điều này, chuyến thăm chính thức ông Trọng đến Bắc Kinh cho thấy việc hai bên đều muốn hàn gắn quan hệ. Khi Chủ tịch Trung Quốc và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Tập Cận Bình đã tổ chức một buổi lễ chào đón nhà nước cấp dành cho Trọng, và sau đó cùng ông hội đàm tại Bắc Kinh, hai nhà lãnh đạo cộng sản báo hiệu một bước tiến quan trọng trong sự thay đổi mạnh mẽ trong tranh chấp trên biển Đông và chính trị trong nước của Việt Nam.

Theo truyền thông nhà nước Việt Nam, chuyến thăm bốn ngày dẫn đến một thông cáo chung, mà cùng với những điểm khác là sự nhấn mạnh duy trì sự tin tưởng lẫn nhau về chính trị và cam kết của hai bên để làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện. Chuyến thăm của Trọng và tăng sự tin tưởng lẫn nhau phản ánh quan hệ Trung Quốc-Việt Nam cải thiện trong tương lai gần sau một vài năm gián đoạn đáng kể.

Từ góc độ của các nhà chiến lược, tầm quan trọng của chuyến thăm Trọng nằm ở những gì nó tượng trưng hơn so với những gì đã nói. Đối với Trung Quốc, nó có nghĩa là lợi ích chiến lược từ một mối quan hệ anh em với Việt Nam đang hồi sinh có thể được coi trọng hơn là việc đe dọa nước láng giềng này với những chi phí chiến lược và chính trị. Việt Nam gần đây đã hiện đại hóa quân sự của mình và tạo lập hợp tác an ninh với Hoa Kỳ.

Đối với Việt Nam, chuyến đi sẽ tái củng cố vị trí cầm quyền của phe thân Trung Quốc, phe này đã suy yếu nhiều hay ít với sự sự nổi lên của các nhà cải cách thân phương Tây trong mấy năm trước dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Chuyến đi của Trọng phản ánh sự thắng thế của phe bảo thủ đối với phe cải cách trong tầng lớp lãnh đạo Việt Nam. Phe thân phương Tây đã bị suy yếu kể từ khi Đại hội đảng toàn quốc lần thứ 12 cách đây một năm. Chuyến thăm cũng báo hiệu rằng Hà Nội dường như lường trước những trở ngại nhất định trong việc hợp tác với Washington dưới thời Tổng thống Trump, đặc biệt khi vị tổng thống mới của Hoa Kỳ rút khỏi hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa của sự nồng ấm trong quan hệ Trung-Việt thời gian gần đây thực sự đến từ các yếu tố quyết định giống nhau tạo thành mối quan hệ truyền thống của hai nước, chứ không phải là những phát triển gần đây trong chính trị trong nước ở cả Việt Nam và Hoa Kỳ. Ở khía cạnh này, sẽ là có giá trị khi nhìn lại những thăng trầm gần đây trong quan hệ Trung Quốc-Việt Nam để hiểu được tình hình hiện nay, và qua đó làm sáng tỏ tương lai của quan hệ tay ba Washington-Hà Nội-Bắc Kinh.

Trong điều kiện của sự gần gũi về địa lý, Việt Nam không thể chọn hàng xóm của nó, nhưng chỉ có thể chọn bạn bè của mình. Chia sẻ số phận của nó với nước láng giềng Trung Quốc từ lâu, Việt Nam hiểu rằng Trung Quốc càng mạnh thì sẽ trở thành mối đe dọa tiềm năng lớn hơn đối với Việt Nam. Bằng chứng mới nhất về mối đe dọa mất an ninh từ Trung Quốc là các cuộc chiến tranh trong thời gian 1979-1988 tuy ngắn nhưng có hậu quả khủng khiếp. Bởi vì điều này, khi Trung Quốc bắt đầu tăng cường sự hiện diện quân sự của mình vào các đảo mà nó chiếm đóng ở Hoàng Sa và Trường Sa, một động thái đe dọa nghiêm trọng đến an ninh quốc phòng của Việt Nam, Hà Nội không có sự lựa chọn nào ngoài việc tăng cường phòng thủ.

Hà Nội bắt đầu tiếp cận với các cường quốc ngoài khu vực để mở rộng khả năng tự vệ. Bắt đầu từ năm 2009, chính quyền thân phương Tây dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bắt đầu công khai thách thức “đường chín gạch” mà Trung Quốc tuyên bố trên Biển Đông bằng chuyển đơn liên quan đến các phần phía nam của Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) của Liên Hợp quốc. Đồng thời, Việt Nam đã hiện đại hóa khả năng phòng thủ của đất nước thông qua các hợp đồng vũ khí trị giá nhiều tỷ USD với Nga, Hà Lan, Israel, và Ấn Độ để mua tàu ngầm, máy bay trinh sát hàng hải, tên lửa hiện đại, và tàu khu trục.

Phản ứng lại, Trung Quốc đã đơn phương đưa ra một loạt các hành động gây hấn, bao gồm nhiều lần tấn công và bắt giữ trái phép tàu đánh cá của Việt Nam trong vùng biển tranh chấp. Vào giữa năm 2014, Bắc Kinh đã triển khai giàn khoan dầu Hải Duong 981 (HD-981) trong vùng biển 120 hải lý tính từ bờ biển của Việt Nam, vi phạm khu đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam quy định bởi luật pháp quốc tế. Vụ việc HD-981 được coi là một phép thử và thay đổi cuộc chơi tại Việt Nam. Nó đã làm cho quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam phát triển trong khi làm xấu đi một cách đáng kể mối quan hệ trên danh nghĩa anh em hai nước xã hội chủ nghĩa. Quan hệ Trung Quốc-Việt Nam tại một số thời điểm được cho là khó có thể nồng ấm trở lại.

Phát triển quan hệ với Hoa Kỳ có thể giúp tăng tính hợp pháp của chế độ cộng sản tại Việt Nam bằng cách tăng cường lợi ích quốc gia, mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp trong nước trong một loạt các ngành sử dụng nhiều lao động, chẳng hạn như ngành công nghiệp dệt may và điện tử. Một số nhà quan sát Việt tin rằng sự biến đổi to lớn trong bản chất của mối quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam, với điểm nhấn là chuyến thăm Washington của ông Trọng năm 2015 và chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Obama đến Việt Nam trong tháng 5 năm 2016, sẽ làm cho Hà Nội vững tâm hơn trong đối đầu với Trung Quốc ở Biển Đông.

Tuy nhiên, sau đại hội 12, quan hệ Trung Quốc-Việt Nam đã chứng minh rằng Hà Nội tập trung hơn vào chiến lược thực tế hơn là việc tham gia bất kỳ liên minh địa chính trị. Việt Nam chắc chắn không có ý định chống Trung Quốc cho dù tìm kiếm sự hỗ trợ ngoại giao và quân sự từ các cường quốc bên ngoài. Do đó, cuộc gặp mặt giữa Trọng và Tập làm sống lại mối quan hệ truyền thống gần gũi của họ, được củng cố bởi sự “gần gũi địa lý” như lời của giáo sư Carlyle Thayer, và mục tiêu xã hội chủ nghĩa.

Nhưng có những lý do khác đằng sau mối quan hệ này. Đối với Trung Quốc, Việt Nam có tầm quan trọng chiến lược, đặc biệt là về an ninh và kinh tế của Trung Quốc. Đối với Việt Nam, mặc dù nước này có thặng dư thương mại với các thị trường kinh tế thuộc G20 trong những năm gần đây, thâm hụt thương mại với Trung Quốc vẫn còn lớn và xảy ra trong nhiều năm. Hơn nữa, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc và đầu tư hỗ trợ phát triển nước ngoài (ODA) từ lâu đã thống trị ở Việt Nam, bắt nguồn sâu xa trong quá trình công nghiệp hóa của đất nước. Điều này làm cho thị trường phát triển nhanh chóng của đất nước rất dễ bị tổn thương với những hành động trả đũa của Trung Quốc. Ví dụ, việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào vùng biển của Việt Nam có thể làm Việt Nam thiệt hại kinh tế khoảng 1-1,5 tỷ USD, theo truyền thông nhà nước Việt Nam.

Vì những lý do này, rất khó để tưởng tượng có sự kiện chính trị nào sẽ khiến hai nước láng giềng quay lưng lại với nhau. Tất nhiên, Trung Quốc và Việt Nam đã đối mặt nhau trong năm 2014 với vụ việc HD-981 và Hà Nội đã công khai gần gũi hơn với các quốc gia đối thủ của Trung Quốc như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Philippines, để ngăn chặn các hành động gây hấn của Trung Quốc. Nhưng mối quan hệ hai đảng và sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, dù bất cân xứng, đóng một vai trò quan trọng, buộc hai bên phải bắt tay với nhau để giảm bớt căng thẳng nghiêm trọng giữa hai nước.

Rõ ràng, Trung Quốc và Việt Nam đều hiểu, như một câu thành ngữ tiếng Việt “bán anh em xa mua láng giềng gần.” Trong Đệ nhị Thế chiến và trong suốt hai thập kỷ sau đó, những ý tưởng chung về chủ nghĩa xã hội và đấu tranh cho độc lập dân tộc và giải phóng đưa hai quốc gia xích lại gần nhau. Nhưng là hàng xóm, tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể không thể tránh khỏi, và sự cạnh tranh giữa hai nước trong thời gian cuối của Chiến tranh lạnh cũng như tham vọng hàng hải ở Biển Đông của Trung Quốc đã đưa hai nước vào cuộc xung đột đẫm máu từ năm 1974.

Tuy nhiên, xem xét tất cả những trở ngại lịch sử mà Trung Quốc và Việt Nam đã vượt qua, sẽ có giá trị khi quan sát rằng mặc dù có sự chênh lệch lớn trong khả năng kinh tế và quân sự với Trung Quốc, Việt Nam chưa bao giờ dựa vào bất cứ nước nào để chống Trung Quốc. Trong khi Việt Nam hiểu rõ điểm yếu của mình đối với Trung Quốc và những tiếng nói tiến bộ hơn ở Hà Nội với muốn hợp tác chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ trong những năm tới, các nhà lãnh đạo của nước này vẫn còn bị mắc kẹt với chính sách quốc phòng ba không: không liên minh quân sự, không cho nước ngoài xây dựng căn cứ  quân sự ở Việt Nam, và không liên minh với một quốc gia để chống lại nước khác. Như vậy, tất cả những nỗ lực để tạo thành liên minh với Việt Nam sẽ là vô ích nếu bất cứ nước nào ngoài khu vực định lợi dụng Việt Nam để kiềm chế Trung Quốc.

Triển vọng tích cực cho vấn đề Biển Đông

Mặc dù hiện nay có thể không có giải pháp để phân chia ranh giới trên Biển Đông, chủ yếu là do hiện trạng ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong những năm gần đây Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc phân định ranh giới các vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Ngoài ra, hai bên cũng đã đạt được một thỏa thuận về Các Nguyên tắc cơ bản hướng dẫn giải quyết các vấn đề liên quan biển vào tháng năm 2011 là kết quả của chuyến viếng thăm của Trọng đến Bắc Kinh. Hiệp định năm 2011, trong đó vạch ra một số nguyên tắc để giải quyết vấn đề trên biển, đã được áp dụng như một “bộ quy tắc ứng xử” cho hai bên tranh chấp, ngăn chặn Trung Quốc sử dụng vũ lực quân sự hoặc cưỡng chế để giải quyết tranh chấp và ngăn chặn xung đột leo thang từ những căng thẳng như vụ việc HD-981. Vì vậy, chuyến thăm của Trọng năm 2017, với việc ra thông cáo chung mới toàn diện, có thể được coi như một sự ổn định và đảm bảo hòa bình trong tranh chấp song phương của hai nước ở Biển Đông ít nhất trong vài năm tới.

Quan trọng hơn, như trong thông cáo chung, Trung Quốc và Việt Nam lại một lần nữa nhấn mạnh cam kết mạnh mẽ để (i) quản lý các khác biệt và những điểm không tương thích trên vùng biển tranh chấp, thông qua các cơ chế song phương trong khuôn khổ đa phương và các diễn đàn, (ii) tiếp tục thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) và (iii) chủ động làm việc hướng tới sự hình thành bộ Quy tắc ứng xử (COC) trên cơ sở đồng thuận và tham vấn. Rõ ràng, một sự tái xem xét như vậy về cách tiếp cận cơ bản để quản lý tranh chấp của cả hai bên phù hợp với cách tiếp cận mà Brunei đề xuất năm ngoái. Thế bế tắc tại các cuộc đàm phán Trung Quốc-Việt Nam trên vùng biển tranh chấp của họ có thể được xua tan trong tương lai gần khi Hà Nội muốn áp dụng cách này trong việc giải quyết các phần Trung-Việt trong những tranh chấp biển Đông thông qua đàm phán trực tiếp với Trung Quốc, tại nơi có thể áp dụng.

Chính trị về nước: Thách thức mới cho quan hệ Trung-Việt

Tuy nhiên, trong khi chờ đợi để xem cách hai nước trở thành gần gũi hơn sau thời gian “đi sai đường” và xu hướng này ảnh hưởng thế nào đến sự cạnh tranh quyền lực ở Biển Đông, có một vấn đề phức tạp khác xuất hiện và thách thức sự ổn định của quan hệ Trung Quốc-Việt Nam trong tương lai gần.

Vấn đề đó là Trung Quốc xây dựng nhiều dự án thủy điện trên dòng chính sông Mekong hùng vĩ, cả trong lãnh thổ Trung Quốc và các quốc gia khác thuộc lưu vực sông Mê Công. Đợt hạn hán lịch sử đã xảy ra trong mùa khô năm 2016, cùng với dòng chảy giảm từ thượng nguồn sông Cửu Long do các đập trên dòng chính, làm trầm trọng hơn sự xâm nhập mặn nội địa tại Việt Nam. Điều này tạo ra căng thẳng cực độ về nguồn cung cấp nước ngọt cho hàng triệu người, đặc biệt là những người sống ở các vùng nông thôn và gần các khu vực ven biển, trong số những thiệt hại to lớn khác về sản lượng nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long, vùng sản xuất lúa quan trọng nhất của Việt Nam. Trong tranh chấp giữa việc chính phủ Trung Quốc đang cố gắng để đáp ứng nhu cầu rất lớn về điện từ một dân số ngày càng tăng ở các trung tâm đô thị tiêu tốn năng lượng, và sự cần thiết phải bảo vệ và giữ gìn sinh thái và tiềm năng thủy sản của sông Mekong, bảo tồn thiên nhiên và an ninh lương thực đang mất đi rõ ràng.

Đối với đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam ở cuối dòng Mê Kong, các hồ thủy điện của Trung Quốc là một mối đe dọa thảm khốc, đe dọa sự sinh tồn của khu vực này. Hơn 20 triệu cư dân từ lâu đã phụ thuộc vào nông nghiệp và đánh bắt cá như là sinh kế của họ. Trong thảm họa kép năm 2016, hành động chậm chạp và miễn cưỡng của chính phủ Trung Quốc trong việc xả nước để giảm bớt hạn hán dọc theo sông Mekong làm hoen ố hình ảnh của Bắc Kinh trong dân chúng Việt Nam nói riêng và cho thấy một khoảng cách lớn giữa lời nói và việc Trung Quốc. Sau tất cả, khi Tập phát biểu 20 phút trước Quốc hội Việt Nam trong năm 2015, ông ta đã hứa rằng Trung Quốc và Việt Nam về lâu dài là “đồng chí tin cậy” và “láng giềng tốt” và “phải tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau để cùng phát triển.”

Điều quan trọng là cần lưu ý rằng Việt Nam là nguồn cung cấp lúa gạo cho Trung Quốc từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1991và gần 80% trăm tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam được sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long. Điều này có nghĩa là khi sản lượng nông nghiệp của khu vực này giảm mà chủ yếu do tác động từ các đập của Trung Quốc, có thể Trung Quốc không còn được nhập khẩu gạo với giá rẻ trong thời gian dài. Tuy nhiên, xác suất về một cuộc chiến tranh nước trên sông Mekong do việc Trung Quốc coi mình như “bạo chúa nước” theo như lời của Margaret Chu, đang trở thành nguy cơ rõ ràng và làm Việt Nam mếch lòng. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể nói từ vị trí của lợi ích riêng của Trung Quốc, nhưng lợi ích của Việt Nam không thể bị lãng quên nếu cả hai bên vẫn quyết tâm tiến về phía trước với những đồng chí chân thành và tình huynh đệ.

Các cuộc xung đột hiện tại về tài nguyên nước trên sông Mekong dường như là một phép thử cho quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Vấn đề này thách thức Bắc Kinh cũng như các nhà lãnh đạo Việt Nam khi nhân dân hai nước mong đợi họ thể hiện kỹ năng trong việc cân đối trò chơi – duy trì quan hệ ngoại giao gần gũi trong khi đồng thời bảo vệ lợi ích quốc gia của mình trong cuộc chiến tranh về nước – mặc dù có những động cơ mâu thuẫn với nhau. Hiển nhiên rằng cuộc chiến về nước là khác nhau với tranh chấp Biển Đông trong nhiều khía cạnh, nhưng sự tương tự có thể làm sáng tỏ về sự quyết liệt của mối đe dọa có thể được khi một nước lớn tìm cách thực hiện tham vọng của mình bằng mọi phương tiện.

Trong trường hợp không có cơ chế ràng buộc pháp lý trong Ủy hội sông Mekong, Việt Nam không nên chờ đợi bất cứ “vị cứu tinh nước” xuất hiện từ các nước láng giềng phía thượng lưu của nó; thay vì quốc gia này sẽ phải tăng cường hơn nữa quan hệ với Washington, một phần là do mong muốn tiếp cận nhiều hơn với thị trường Hoa Kỳ và một phần là do những lo ngại về ảnh hưởng của việc mở rộng của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Việt Nam có thể chủ động tham gia vào Sáng kiến ​​Hạ lưu sông Mekong do Mỹ dẫn đầu để hội nhập tiểu vùng Mekong tiên tiến và tìm thấy một cách để giải quyết việc xây dựng đập ở thượng nguồn. Đây cũng là một cơ hội quan trọng đối với chính quyền Trump mới thể hiện quyết tâm của mình để kiềm chế Trung Quốc  gây hấn ở sông Mekong.

Nguyễn Minh Quang là một giảng viên tại Đại học Giáo dục thuộc Đại học Cần Thơ, tập trung vào các vấn đề nghiên cứu xung đột và an ninh môi trường trong khu vực Đông Nam Á. Ông hiện đang học tiếng Ba Lan tại Trung tâm Polonicum, Đại học Warsaw, Ba Lan. Quan điểm thể hiện trong bài viết này là của tác giả riêng và không phản ánh quan điểm của Đại học Cần Thơ.

The Resurgence of China-Vietnam Ties