Núp bóng Covid-19, Trung Cộng gia tăng gây hấn ở Biển Đông

Bắc Kinh đã gia tăng áp lực lên các nước láng giềng trong nỗ lực thống trị toàn bộ Biển Đông.

 

Robert A. Manning và Patrick M. Cronin, Foreign Policy, ngày 14/5/2020

(Vũ Quốc Ngữ dịch)

 

Trong khi thế giới bị phân tâm bởi đại dịch coronavirus, Trung Quốc đã âm thầm sử dụng các hoạt động bán quân sự và chính trị-pháp lý ở Biển Đông nhằm thay đổi cục diện ở khu vực. Cho rằng Hoa Kỳ đang tập trung ở nơi khác và mệtmỏi sau nhiều năm lấn chiếm của Trung Cộng, những nỗ lực của Bắc Kinh đang tiến đến một điểm bùng phát không thể cứu vãn. Trung Cộng đặt mục tiêu ép buộc các nước láng giềng từ bỏ yêu sách hàng hải và quyền lãnh thổ theo luật pháp quốc tế và thay đổi hiện trạng theo hướng không thể đảo ngược. Bắc Kinh tìm cách áp đặt cái gọi là đường chín đoạn, một ranh giới không được công nhận chiếm khoảng 85% Biển Đông, gần như toàn bộ diện tích trong vùng biển quốc tế này, nơi 3,4 nghìn tỷ đô la hàng hóa được vận chuyển mỗi năm một cách tự do, ít nhất là bây giờ.

Các tuyên bố của Trung Quốc đối với các đảo nhỏ và rạn san hô đang tranh chấp bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nơi mà họ gọi là Xisha và Nansha, dựa trên cơ sở bị nghi vấn bởi luật pháp quốc tế và thay vào đó dựa trên một loạt các dấu gạch ngang hình oval được vẽ trên bản đồ Biển Đông. Các đảo nhỏ này, một số trong đó Bắc Kinh đã biến thành đảo nhân tạo và xây dựng nhiều căn cứ quân sự, cũng thuộc yêu sách của Malaysia, Philippines, Việt Nam và Brunei. Đường lưỡi bò ban đầu được vẽ bởi chính phủ của Tưởng Giới Thạch vào năm 1947 và được sửa đổi vào năm 1952 bởi Mao Trạch Đông. Năm 2009, trong một công hàm ngoại giao gửi tới Ủy ban về giới hạn của thềm lục địa, Trung Cộng đã đính kèm bản đồ đường đứt nét và tuyên bố rằng họ có chủ quyền không thể chối cãi đối với các đảo ở Biển Đông và vùng biển lân cận, và được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng biển có liên quan cũng như đáy biển và lòng đất của chúng. Bắc Kinh đã thúc đẩy yêu sách đó với sự quyết đoán ngày càng tăng kể từ đó, tất cả trong khi lợi sự mơ hồ của các điều khoản, chẳng hạn như khái niệm “liền kề” và “liên đới.”

Đừng quên rằng các yêu sách của Bắc Kinh về cơ bản không tương thích với luật pháp quốc tế về biên giới trên biển, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, luật mà Trung Cộng đã phê chuẩn và theo đó họ tuyên bố tuân thủ. Đừng bận tâm, rằng, các tuyên bố đã bị phán quyết bởi một tòa án quốc tế ở The Hague. Đây là một phần trong chiến lược rộng lớn hơn của Trung Cộng nhằm tạo ra phiên bản riêng của Học thuyết Monroe, chính sách thế kỷ 19 mà Hoa Kỳ tuyên bố toàn bộ Bắc và Nam Mỹ là khu vực kiểm soát chính đáng của mình trong việc loại trừ ảnh hưởng của các cường quốc châu Âu. Bắc Kinh tìm kiếm một phạm vi ảnh hưởng quyết định với khả năng phòng thủ quân sự để khiến Hoa Kỳ phải trả giá rất cao về chi phí quân sự nếu muốn can thiệp. Nói tóm lại, trong khi thế giới chiến đấu với COVID-19, Trung Quốc đang tiến gần hơn đến việc thiết lập sự thống trị khu vực.

Những hành động này, và phản ứng của Hoa Kỳ và các nước trong khu vực, sẽ xác định xem tương lai của khu vực sẽ là một khu vực sự cởi mở và chia sẻ thịnh vượng hay chứa nhiều mâu thuẫn và xung đột.

Vào ngày 18/4, Trung Cộng tuyên bố thành lập hai khu hành chính mới, một có trụ sở ở đảo Đá Chữ Thập, một hòn đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa và một hòn đảo khác trên đảo Phú Lâm ở Hoàng Sa. Bắc Kinh đã đặt tên cho 80 đảo nhỏ và rạn san hô, bao gồm không chỉ các đảo nhân tạo mà còn 55 thực thể tồn tại dưới nước vĩnh viễn. Những hành động này có nghĩa là để tạo sự kiện mới để tuyên bố rằng Trung Cộng đang kiểm soát 1,4 triệu dặm vuông của Biển Đông.

Để thực thi những yêu sách này trong năm qua, Trung Cộng đã tăng áp lực bằng cách đưa ba lực lượng hải quân của họbao gồm các đội tàu chiến của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, lực lượng hải cảnh bảo vệ bờ biển và dân quân biển ở vùng biển ngoài khơi của Indonesia, Malaysia, Việt Nam và Philippines. Việc đánh bắt cá bất hợp pháp của Trung Cộng này đã khiến Indonesia đẩy mạnh các hành động của hải quân, bao gồm đánh chìm hơn một chục tàu đánh cá Hoa Lục quanh quần đảo Natuna, được quốc tế công nhận là nằm ở vùng biển Indonesia. Thay vì lùi lại, Trung Cộng đã nối lại hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp quanh quần đảo Natuna vào cuối tháng 3. Trong khi Trung Cộng không tranh chấp chủ quyền của Indonesia đối với khu vực này, Bắc Kinh đưa ra tuyên bố vô lý rằng đây là ngư trường truyền thống của Trung Quốc từ thời cổ đại, như thể ngư dân Indonesia, Malaysia hoặc Việt Nam (mà tàu của họ bị Trung Cộng quấy rối có hệ thống) không tồn tại ở quá khứ.

Đáng ngại hơn, Bắc Kinh đã gia tăng sự bành trướng trong năm qua bằng cách đe dọa các dự án dầu khí lớn ngoài khơi bên trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) được quốc tế công nhận của Malaysia và Việt Nam. (EEZ của một quốc gia kéo dài 200 hải lý tính từ bờ).

Vào cuối tháng 4, một tàu khảo sát của Trung Quốc được hộ tống bởi hải cảnh đã quấy rối một tàu thăm dò được vận hành bởi công ty năng lượng khổng lồ Petronas của Malaysia  bên trong EEZ của Malaysia. Sự đe dọa đối với giàn khoan đã diễn ra sau những bế tắc tương tự vào năm ngoái. Trước khi đến Malaysia, tàu khảo sát của Trung Cộng đi qua EEZ của Việt Nam, gần địa điểm xảy ra xung đột trước đó. Năm 2019, các tàu Trung Cộng và Việt Nam đã cố gắng ngăn chặn việc thăm dò của nhau về 5 lô dầu khí ngoài khơi bên trong EEZ của Việt Nam.

Điều này đã làm dấy lên lo ngại trong khu vực rằng Trung Cộng đang cố gắng phá vỡ và dần dần bóp nghẹt các hoạt động khai thác dầu khí của Malaysia và Việt Nam trong khu vực và xóa bỏ các yêu sách lãnh thổ của họ.

Chi phí của Malaysia sẽ rất nghiêm trọng nếu Petronas phải dừng thực hiện các dự án quan trọng.

Tương tự, Hà Nội lo ngại rằng ExxonMobil và Rosneft có thể từ bỏ các dự án trong vùng biển của Việt Nam nếu sự quấy rối của Trung Cộng tiếp tục.

Trò chơi của Trung Cộng là một liều thuốc thử để xác định vị trí và uy tín của Hoa Kỳ tại Châu Á.

Tương tự, Trung Cộng đang thách thức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong đó tập hợp các quốc gia phản đối sự bành trướng của Trung Quốc nhưng với rất ít các hoạt động cụ thể ngoài việc phản đối bằng ngoại giao. Hoa Kỳ không có yêu sách lãnh thổ nhưng có lợi ích lâu dài đối với tự do hàng hải. Đến nay, phản ứng của Hoa Kỳ đối với sự bành trướng của Trung Cộng chủ yếu là lên án ngoại giao và tăng cường cái gọi là tự do hoạt động hàng hải của Hải quân Hoa Kỳ trong vùng biển quốc tế mà Trung Cộng tuyên bố chủ quyền. Các hoạt động này là cần thiết nhưng không đủ, vì chúng không có tác động rõ ràng đến hành vi của Trung Cộng cho đến nay. Tương tự như vậy, ASEAN đã mất gần 20 năm không có kết quả để cố gắng đàm phán với Bắc Kinh về một bộ quy tắc ứng xử cho Biển Đông.

Vai trò trung tâm trong việc phản đối Trung Cộng sẽ thuộc về ASEAN, một liên minh tiềm năng mạnh mẽ của 10 quốc gia với 625 triệu dân và gần 3 nghìn tỷ đô la GDP kết hợp. Nhưng bởi vì các quyết định của ASEAN đòi hỏi phải có sự đồng ý nhất trí, hành động mạnh mẽ đã bị chặn bởi hai thành viên của nó là Campuchia và Lào, được coi là thân thiết với Bắc Kinh, cho phép Trung Cộng quyền phủ quyết trong thực tế. ASEAN cần xây dựng lại cơ chế ra quyết định. Nếu ASEAN không thể tìm thấy ý chí hành động như một khối, thì những thành viên ASEAN muốn hành động nên thành lập một khối hàng hải như một liên minh riêng.

Hành động táo bạo hơn ở châu Á cũng đòi hỏi sự lãnh đạo đáng tin cậy của Hoa Kỳ. Những người chơi trong khu vực lo ngại rằng khiêu khích Trung Cộng sẽ dẫn đến sự ép buộc kinh tế. Nhưng những hành động gần đây của Bắc Kinh đã thúc đẩy một phản ứng mạnh mẽ khác thường từ các quốc gia ven biển của ASEAN bị ảnh hưởng thường xuyên bởi sự đe doạ của Trung Cộng. Các quốc gia Đông Nam Á giáp biển nhận thức sâu sắc rằng việc không hành động sẽ giúp Bắc Kinh kiểm soát vĩnh viễn các hoạt động kinh tế và quân sự ở Biển Đông, đó sẽ là một đòn chí mạng đối với quyền tự chủ chiến lược của họ. Do đó, thời gian đã chín muồi cho một liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo. Sẽ là khôn ngoan nếuHoa Kỳ, Nhật Bản và Úc đi đầu trong việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử cho Tây Thái Bình Dương dựa trên luật pháp quốc tế được công nhận và thành lập các tổ chức pháp lý hàng hải.

Nếu ASEAN có thể có hành động tập thể, sức ép của Trung Cộng đối với các nước thành viên sẽ tiêu tan. Ngược lại, chiến thuật bắt nạt Bắc Kinh có hiệu quả nhất khi thành công trong chia rẽ và cô lập các nước láng giềng. Sau khi Hảicảnh Trung Cộng đánh chìm một tàu cá của Việt Nam và làm tám ngư dân bị thương vào ngày 3/4, Bộ Ngoại giao Philippines đã thực hiện bước hiếm hoi bày tỏ sự ủng hộ đối với Việt Nam. Bắc Kinh đã lưu ý. Tương tự, nó đã tạo ra sự khác biệt khi Việt Nam giải cứu ngư dân Philippines bị mắc kẹt năm ngoái sau khi tàu của họ bị một tàu dân quân Trung Cộng đâm chìm.

Ngăn chặn việc Tây Thái Bình Dương trở thành một hồ nước thuộc sở hữu của Trung Cộng đòi hỏi phải hợp tác để bảo vệ các đối tác và luật pháp quốc tế. Các quốc gia hàng hải như Philippines, Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Brunei nên tăng cường hợp tác bằng cách phối hợp các hoạt động của lực lượng bảo vệ bờ biển, tăng cường chia sẻ thông tin tình báo và đạt được thỏa thuận về cách phân định ranh giới trên biển ở Biển Đông.

Trong khi đó, Hoa Kỳ nên đóng vai trò là chất xúc tác cho hệ thống phòng thủ khu vực bằng cách tài trợ cho Sáng kiến ​​Răn đe Ấn Độ-Thái Bình Dương, hỗ trợ các quốc gia tăng cường sức mạnh quân sự. Nếu kế hoạch chiếm Biển Đông của Trung Cộng thành công, đó sẽ là một đòn giáng mạnh vào uy tín của Hoa Kỳ, tạo ra sự nghi ngờ về hiệu quả của các liên minh và quan hệ đối tác của Hoa Kỳ trong khu vực.

Trung Quốc hiểu điều đó, cũng như ASEAN và Hoa Kỳ.

Robert A. Manning là thành viên cao cấp của Trung tâm Chiến lược và An ninh Brent Scowcroft tại Hội đồng Đại Tây Dương và là cựu quan chức của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trong thời chính quyền George W. Bush. Twitter: @ Rmanning4

Patrick M. Cronin là chủ tịch của  An ninh châu Á-Thái Bình Dương tại Viện Hudson và là cựu quan chức USAID trong chính quyền George W. Bush.